Các Chính Sách Biện Pháp Cải Cách Trong Nông Nghiệp Của Trung Quốc

Các Chính Sách Biện Pháp Cải Cách Trong Nông Nghiệp Của Trung Quốc

Hội nghị Trung ương 3 khoá 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thông qua kế hoạch cải cách và phát triển nông thôn, với mục tiêu thu hẹp khoảng cách nghèo giàu giữa nông thôn và thành thị, cải thiện an ninh lương thực, tăng gấp đôi thu nhập của 800 triệu nông dân Trung Quốc ở mức 4.140 nhân dân tệ hiện nay (591 USD) vào năm 2020. "Các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân hiện nay liên quan đến nhiệm vụ phát triển chung của đảng và nhà nước" - thông cáo viết. Theo cải cách mà hội nghị đề ra, nông dân sẽ được mua bán, cho thuê quyền sử dụng đất. Việc được phép bán đất sẽ dẫn tới thành lập những nông trại quy mô lớn với công nghệ canh tác hiện đại - điều có thể giúp nông nghiệp Trung Quốc cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Với những người nông dân muốn chuyển ra thành thị sinh sống, chính sách mới sẽ cho họ bán đất để ra thành phố với một khoản tiền tiết kiệm - điều này rất phù hợp với thực tế hàng triệu nông dân bỏ đất ra thành phố hiện nay và bỏ mặc ruộng đất bị hoang hoá. Hội nghị còn thảo luận việc kéo dài hợp đồng giao quyền sử dụng đất cho nông dân từ 30 thành 70 năm, nhưng chưa rõ biện pháp này có được thông qua hay không. Ngoài ra, theo chính sách mới, các công ty mua đất từ nông dân sẽ không được dễ dàng sử dụng đất vào các mục đích khác ngoài mục đích nông nghiệp. Chính sách mới đã được sự hoan nghênh từ nhiều phía. Tuy nhiên các nhà phân tích cũng lưu ý rằng, Chính phủ Trung Quốc cần đảm bảo việc thực thi chính sách này được nghiêm túc, đặc biệt là ở cấp địa phương. Để làm được điều đó, nông dân và các quan chức địa phương cần được giáo dục các khía cạnh pháp lý của quyền sử dụng đất. Nhà nước cũng cần cấp đầy đủ giấy tờ sở hữu đất cho nông dân. Mặc dù con số của chính phủ cho biết khoảng 80 đến 90% nông dân Trung Quốc có đầy đủ giấy tờ sở hữu đất, nhưng chỉ một nửa số đó là có thực.

Hội nghị Trung ương 3 khoá 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thông qua kế hoạch cải cách và phát triển nông thôn, với mục tiêu thu hẹp khoảng cách nghèo giàu giữa nông thôn và thành thị, cải thiện an ninh lương thực, tăng gấp đôi thu nhập của 800 triệu nông dân Trung Quốc ở mức 4.140 nhân dân tệ hiện nay (591 USD) vào năm 2020. "Các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân hiện nay liên quan đến nhiệm vụ phát triển chung của đảng và nhà nước" - thông cáo viết. Theo cải cách mà hội nghị đề ra, nông dân sẽ được mua bán, cho thuê quyền sử dụng đất. Việc được phép bán đất sẽ dẫn tới thành lập những nông trại quy mô lớn với công nghệ canh tác hiện đại - điều có thể giúp nông nghiệp Trung Quốc cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Với những người nông dân muốn chuyển ra thành thị sinh sống, chính sách mới sẽ cho họ bán đất để ra thành phố với một khoản tiền tiết kiệm - điều này rất phù hợp với thực tế hàng triệu nông dân bỏ đất ra thành phố hiện nay và bỏ mặc ruộng đất bị hoang hoá. Hội nghị còn thảo luận việc kéo dài hợp đồng giao quyền sử dụng đất cho nông dân từ 30 thành 70 năm, nhưng chưa rõ biện pháp này có được thông qua hay không. Ngoài ra, theo chính sách mới, các công ty mua đất từ nông dân sẽ không được dễ dàng sử dụng đất vào các mục đích khác ngoài mục đích nông nghiệp. Chính sách mới đã được sự hoan nghênh từ nhiều phía. Tuy nhiên các nhà phân tích cũng lưu ý rằng, Chính phủ Trung Quốc cần đảm bảo việc thực thi chính sách này được nghiêm túc, đặc biệt là ở cấp địa phương. Để làm được điều đó, nông dân và các quan chức địa phương cần được giáo dục các khía cạnh pháp lý của quyền sử dụng đất. Nhà nước cũng cần cấp đầy đủ giấy tờ sở hữu đất cho nông dân. Mặc dù con số của chính phủ cho biết khoảng 80 đến 90% nông dân Trung Quốc có đầy đủ giấy tờ sở hữu đất, nhưng chỉ một nửa số đó là có thực.

Các giai đoạn phát triển nông nghiệp và chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc

Sự phát triển của nền nông nghiệp Hàn Quốc kể từ khi thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc (1948) đến nay có thể được phân định thành 3 giai đoạn lớn với những đặc trưng chủ yếu là: Cải tạo nông nghiệp và xây dựng nền tảng cơ sở của sản xuất nông nghiệp (1948 - 1970); Xây dựng nông thôn mới (1970 - 1995); và Hội nhập quốc tế về nông nghiệp (1995 đến nay).

Hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn là một trong những vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới, không chỉ đối với các nước đang phát triển với nông nghiệp là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, mà kể cả các nước đã phát triển với các ngành công nghệ và dịch vụ giữ vai trò chủ đạo.

Từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, với hơn 70% GDP do nông nghiệp đóng góp và hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và với GDP bình quân đầu người hơn 70 USD vào đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước theo định hướng xuất khẩu và đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đứng hàng thứ 10 trên thế giới. Trong quá trình đó, nền nông nghiệp của Hàn Quốc đã trải qua những giai đoạn thăng trầm và phải đương đầu với khá nhiều vấn đề trong quá trình phát triển để có thể trở thành một nền nông nghiệp hiện đại.

Bài viết này tập trung phân tích các giai đoạn chủ yếu trên con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp Hàn Quốc và các chính sách nông nghiệp chủ yếu mà chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện qua các giai đoạn đó.

1. Tổng quan về các giai đoạn phát triển chủ yếu của nông nghiệp Hàn Quốc

Sự phát triển của nền nông nghiệp Hàn Quốc kể từ khi thành lập nước Đại hàn dân quốc (1948) đến nay có thể được phân định thành 3 giai đoạn lớn: 1948 - 1970; 1970 - 1995; và từ 1995 đến nay.

Những năm 1950, 1960, bức tranh nông nghiệp Hàn Quốc khá ảm đạm với những cánh đồng khô cằn, hiệu quả kinh tế thấp; tư duy canh tác của người nông dân manh mún, lạc hậu. Nguyên nhân của tình trạng trì trệ này là do sản xuất nông nghiệp dựa trên kinh nghiệm là chính, năng suất và thu nhập thấp, nông đân không có khả năng tái đầu tư nên bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn đói nghèo. Trước tình trạng này, Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định phá vỡ sự bế tắc bằng cách thực hiện biện pháp “hai mũi giáp công đồng bộ”: một là, đưa kỹ thuật sản xuất mới (giống mới, phân bón và nông dược, cung cấp tín dụng đầy đủ và xác định giá nông sản nâng đỡ cho nhà nông); hai là, thay đổi cơ chế chính sách nông nghiệp (cải cách ruộng đất để mọi nông dân đều có đất canh tác, đồng thời ban hành Luật Hợp tác xã và xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) đa mục tiêu khuyến khích nông dân tham gia).

HTXNN đa mục tiêu của Hàn Quốc có nhiệm vụ hướng dẫn và đào tạo kỹ năng sản xuất cho nông dân; cung cấp các phương tiện cần thiết cho an sinh xã hội; làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm và cung cấp vật tư nông nghiệp cho xã viên từ đồng ruộng đến chợ hàng hoá (bao gồm sản xuất, chế biến và bán ra thị trường); dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm (bao gồm kinh doanh tài chính nông nghiệp, tín dụng và tiết kiệm của các HTXNN thành viên); dịch vụ về chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, từ sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Điều này đã “vực” nền nông nghiệp Hàn Quốc từ yếu ớt trở nên ổn định. Nhờ đó, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng gấp đôi so với 15 năm trước.

Cụ thể là từ năm 1962 đến 1971, Chính phủ Hàn Quốc đã thực thi kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế lần thứ nhất và thứ hai, trợ giúp các ngành nghề trọng điểm và mở rộng xuất khẩu. Nhưng trong thời kỳ này, sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp đã bị mất cân đối nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề này, tháng 4 năm 1970 Chính phủ Hàn Quốc đã phát động “Phong trào làng mới". Cách thức hoạt động chủ yếu của phong trào này là Chính phủ là người chủ đạo, cung cấp nguyên vật liệu và máy móc thiết bị; các Hội Nông dân địa phương tổ chức cho nông dân thực thi cụ thể.

Chương trình xây dựng nông thôn mới (hay phong trào làng mới) ở Hàn Quốc được khởi xướng vào đầu những năm 1970. Sau hơn 20 năm nỗ lực thực hiện chương trình này, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc hiện đại hoá nông nghiệp và cải tạo nông thôn. Chương trình xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc trong giai đoạn này được chia thành 5 giai đoạn nhỏ hơn như sau:

(1) Giai đoạn cải thiện điểu kiện cư trú của nông dân (1971 - 1973):Trọng điểm của giai đoạn này là cải thiện điều kiện ăn ở của người dân. Bắt đầu từ mùa Đông năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ nông dân các vật tư xây dựng như xi măng, sắt thép... Bộ Nội vụ Hàn Quốc đã trực tiếp lãnh đạo và phụ trách tổ chức thực thi chương trình xây dựng nông thôn mới; thành lập Viện nghiên cứu trung ương về chương trình này; đồng thời đào tạo hàng loạt các chỉ đạo viên có năng lực để phục vụ cho chương trình.

(2) Giai đoạn nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân (1974 - 1976): Ở giai đoạn này, phong trào làng mới bắt đầu mở rộng theo hướng đô thị hóa. Tiếp tục tập trung xây mới và sửa chữa các công trình công cộng như nhà họp, công trình nước máy, khuyến khích xây mới nhà ở và phát triển kinh doanh đa dạng, tăng cường giáo dục nông thôn mới nhờ lực lượng chỉ đạo viên, cán bộ chính phủ, người phụ trách đoàn thể xã hội... Đồng thời, Chính phủ cũng cung cấp các khoản tín dụng và nhiều điều kiện ưu đãi khác cho những vùng thực hiện phong trào làng mới có hiệu quả; động viên giáo viên, nhân viên nghiên cứu về nông thôn dạy học và phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân. Trong giai đoạn này, sản xuất nông nghiệp của Hàn Quốc đã liên tục có những vụ mùa bội thu, thu nhập của đông đảo nông dân được cải thiện đáng kể.

(3) Giai đoạn đi sâu vào sản nghiệp nông thôn, giảm nhẹ tác động của Chỉnh phủ (1977-1980): Trong giai đoạn này, ngành nuôi trồng, ngành gia công nông sản phẩm và nông nghiệp đặc sản phát triển nhanh chóng. Chính phủ tiếp tục cung cấp nguyên liệu xây dựng để mở ra các khu khai thác công nông và các công trình văn hóa nông thôn; ngành bảo hiểm nông thôn và xây dựng văn hóa nông thôn cũng phát triển khá nhanh.

(4) Giai đoạn xây dựng theo hình thái nông dân tự phát làm chủ và được xác nhận (1981 - 1988):Lúc này, Chính phủ mạnh tay điều chỉnh các chính sách và biện pháp thực hiện phong trào làng mới, người nông dân, dưới sự chỉ đạo của chính phủ, đã tự chủ triển khai xây dựng hiện đại hóa nông thôn. Trong giai đoạn này, trọng điểm công tác của Chính phủ là xây dựng và hoàn thiện tổ chức của phong trào làng mới trên toàn quốc, định ra kế hoạch phát triển và làm tốt việc cung cấp tài chính, vật lực và hỗ trợ về kỹ thuật để phát triển nông nghiệp và nông thôn, phối hợp tốt các công tác: đào tạo, thông tin, tuyên truyền...

(5) Từ đầu những năm 1990 đến 1995,thông qua phong trào làng mới, Hàn Quốc đã phổ cập được hạ tầng cơ sở ở nông thôn, thu hẹp một phần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, nâng cao trình độ tổ chức của nông dân, chấn hưng tinh thần quốc dân, cuộc sống của người nông dân cũng đạt đến mức khá giả, nông thôn đã bắt kịp tiến trình hiện đại hóa của cả nước, đồng thời đưa thu nhập quốc dân của Hàn Quốc đạt đến tiêu chí của một quốc gia phát triển.

1. 3. Giai đoạn 3 (1995 đến nay)

Khi Hàn Quốc gia nhập WTO vào năm 1995, nông dân Hàn Quốc đứng trước một thách thức mới, đó là các cam kết cắt bỏ mọi khoản trợ cấp cho nông dân. Để thích ứng với những cam kết WTO, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành chiến lược nông nghiệp mới, trong đó chú trọng đổi mới khả năng cạnh tranh của nông nghiệp bằng cách huấn luyện nông dân, hiện đại hoá hệ thống marketing, áp dụng công nghệ thông tin; ổn định an sinh nông thôn thông qua đầu tư cho giáo dục, y tế và đặc biệt là hưu trí của nông dân xã viên. Ngoài ra, Nhà nước còn cải tiến cơ chế chính sách, đặc biệt là chuyển hướng mục tiêu hoạt động của HTXNN. Theo đó, thay vì hoạt động dàn trải trước đây, HTXNN tập trung vào những sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế cạnh tranh cũng như khả năng thành công cao. Thủ tục tài chính được cải cách với hình thức thanh toán trực tiếp thay vì qua trung gian.

Từ năm 1997 đến năm 2003, Chính phủ Hàn Quốc đã dành 48 tỷ USD thực hiện chiến lược trên và dự trù khoảng 110 tỷ USD cho giai đoạn 2004 -2013 để tiếp tục cải tiến thuỷ lợi, cải cách ruộng đất, hiện đại hoá phương tiện marketing, nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất, cải tiến chất lượng cuộc sống của bà con nông dân...

Giá trị sản lượng nông nghiệp của Hàn Quốc đã tăng gấp đôi so với 15 năm trước. Năm 2005, mặc dù tăng trưởng nông nghiệp chậm lại nhưng Hàn Quốc đã đạt được mục tiêu hàng đầu là tự cung tự cấp về gạo - nguồn lương thực chủ yếu của đất nước - với sản lượng 4,8 triệu tấn.

Hàn Quốc đã tập trung nỗ lực phát triển nông nghiệp vào việc tăng sản lượng lên mức tối đa từ diện tích đất trồng trọt có hạn của đất nước (vốn chỉ chiếm 19% tổng diện tích đất đai). Những giống lúa mới và những cây trồng khác cho sản lượng cao đã được đưa vào gieo trồng. Ngoài ra, công nghiệp phân bón và thuốc trừ sâu cũng được phát triển để cung cấp đầy đủ những sản phẩm thiết yếu này cho các chủ trang trại.

Sản xuất hoa quả, rau xanh, các cây trồng ngắn ngày có giá trị kinh tế cao và các sản phẩm chăn nuôi tăng nhanh. Sự phát triển nhà kính làm bằng nhựa vi-nyl đã góp phần quan trọng vào việc tăng khối lượng thu hoạch rau xanh cho đất nước.

Quá trình công nghiệp hóa đã làm giảm nhanh dân số nông nghiệp. Tỷ lệ dân nông thôn trong tổng dân số giảm mạnh từ 57% năm 1962 xuống dưới 9% vào cuối những năm 2000. Xu hướng này đã ảnh hưởng đến cơ cấu lao động của các ngành công nghiệp quốc gia. Để giải quyết vấn đề lao động trong ngành nông nghiệp đang giảm nhanh, Chính phủ Hàn Quốc đã có những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp. Cơ giới hóa đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc trồng và thu hoạch lúa. Ngoài ra, những giống cây mới cho năng suất cao, có khả năng kháng sâu bọ và bệnh tật tốt hơn đang được phát triển.

Cỏ thể nói rằng những vấn đề đặt ra cần được giải quyết trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn Hàn Quốc như: an ninh lương thực, sự chênh lệch về thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn và thành thị, tăng cường năng lực cạnh tranh nồng nghiệp, và sự phát triển nông thôn... chính là những mục tiêu chính sách chủ yếu đặt ra trong nông nghiệp Hàn Quốc trong suốt quãng thời gian hơn nửa thế kỷ qua kể từ khi nước Đại hàn dân quốc (Hàn Quốc) được thành lập đến nay. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực tiễn và sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trong mỗi giai đoạn mà các chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc được nhấn mạnh vào một hoặc một số nội dung nhất định.

2. Nội dung chủ yếu của chính sách nông nghiệp qua các giai đoạn

2.1. Cải tạo nông nghiệp và xây dựng nền tảng cơ sở của sản xuất nông nghiệp (1948 - 1970)

Nội dung chủ yếu của chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc trong giai đoạn này là cải cách ruộng đất và xây dựng nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nông nghiệp sau khi Chính phủ đầu tiên của Hàn Quốc được thành lập. Tuy nhiên, do sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1950, những bất ổn về xã hội tiếp tục kéo dài cho đến giữa những năm 1950. Cải cách ruộng đất được thực hiện từ 1950 đến 1957 đã thủ tiêu quan hệ địa chủ - tá điền về ruộng đất và thiết lập các nông trang độc lập. Nền kinh tế Hàn Quốc lúc này cơ bản là một nền kinh tế nông nghiệp tiền công nghiệp hoá. Vì vậy, nhu cầu tích luỹ và cung cấp vốn cho quá trình công nghiệp hoá là hết sức cấp thiết. Bởi vì nông nghiệp đã góp phần làm giảm tỉ lệ thất nghiệp tiềm tàng và vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách nông nghiệp đã tập trung vào việc giải quyết vấn đề thiếu lương thực. Một trong những biện pháp chính sách chủ đạo lúc này là thu mua lương thực, phân phối nguồn lương thực viện trợ của Mỹ theo Luật công 480 được ban hành năm 1956, và tăng sản lượng lương thực. Mặc dù viện trợ lương thực của Mỹ đã giúp giải quyết ngay vấn đề thiếu lương thực, song nó cũng làm giảm giá các sản phẩm nông nghiệp của Hàn Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nông dân. Hơn nữa, kế hoạch tăng sản lượng lương thực của Chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn do các phương tiện cần thiết để thực hiện như phát triển kỹ thuật và mở rộng quy mô nông trại chưa thực hiện được.

Đây cũng là giai đoạn thiết lập một cách vững chắc thể chế cho việc quản lý nông nghiệp. Các cơ quan như Cục Quản lý phát triển nông thôn, Văn phòng công tác hàng hải, và Cục kiểm lâm đã được thành lập. Hệ thống hợp tác xã nông nghiệp tổng hợp cũng được thành lập sau khi Luật Hợp tác xã nông nghiệp được ban hành năm 1961. Vấn đề cải thiện cơ cấu nông nghiệp cũng đã được đặt ra và Luật nông nghiệp cơ bản được ban hành năm 1967 nhằm khuyến khích các hộ gia đình nông dân tự lực sản xuất.

2. 2. Xây dựng nông thôn mới (1970 - 1995)

Giai đoạn này là giai đoạn đẩy mạnh quản lý nông nghiệp để tăng sản lượng, số lượng các hộ gia đình nông dân vốn tăng mạnh trong giai đoạn trước đã bắt đầu giảm đi kể từ năm 1968, và tổng diện tích đất nông nghiệp cũng bắt đầu giảm từ năm 1969. Với sự phát triển nhanh chóng của quá trình công nghiệp hoá, một số lượng lớn đất đai trong nông nghiệp chuyển thành các khu công nghiệp và tương tự như vậy một số lượng lớn lao động nông thôn đã di chuyển ra thành thị và các khu công nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu của quản lý nông nghiệp trong giai đoạn này là làm thế nào để có thể duy trì hệ thống nông trại độc lập trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Để thực hiện mục tiêu này, Luật ruộng đất đã được ban hành, nhưng không thực hiện được triệt để do phản ứng của dư luận, vấn đề thiếu lương thực hệ quả của quá trình công nghiệp hoá ngày càng trở nên nghiêm trọng, các mục tiêu của chính sách nông nghiệp của Chính phủ được hướng vào việc tăng sản xuất lương thực và hiện đại hoá quá trình sản xuất. Các biện pháp để thực hiện tăng sản xuất lương thực bao gồm: phát triển và phổ biến các kỹ thuật nông nghiệp mới, hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, thành lập các nông trang, tái điều chỉnh đất canh tác, phát triển các nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cải tiến hạt giống, và cơ khí hoá nông nghiệp. Các biện pháp chính sách bổ sung cho các biện pháp chính sách này là chính sách phát triển các làng cung cấp điện và mở rộng đường sá, chính sách thu nhập nông nghiệp được cụ thể hoá trong Dự án đặc biệt về tăng thu nhập của nông dân và ngư dân, và chính sách trợ giá bao gồm chính sách giá gạo cao và hệ thống chỉ số thu mua lúa mạch. Đặc biệt là một loại giống lúa gạo mới cho sản lượng cao Tongil Byeo đã được phát triển và đưa vào sử dụng từ năm 1971. Kết quả là sản lượng sản xuất lương thực đã tăng nhanh giúp cho Hàn Quốc có thể tự đảm bảo được về gạo từ năm 1977.

Phong trào nông thôn mới với tên gọi là “Saemaul Undong” được bắt đầu vào năm 1970 đã tạo ra sự bùng nổ phát triển nông thôn. Trong giai đoạn này, thu nhập của hộ gia đình nông dân đã tăng đáng kể và kinh tế nông trại trở nên ổn định hơn so với các giai đoạn trước đó nhờ tăng sản xuất và trợ giá gạo. Nhờ có phong trào nông thôn mới mà môi trường sống hàng ngày ở các vùng nông thôn và ý thức kinh tế của nông dân cũng thay đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình trạng cho thuê ruộng đất bắt đầu tăng mà không có sự cải thiện về cơ cấu nông nghiệp vốn dựa trên hệ thống các nông trại độc lập quy mô nhỏ. Những mâu thuẫn trong quản lý nông nghiệp đã nảy sinh. Điều này là do nông nghiệp Hàn Quốc phải trải qua nhiều mâu thuẫn lợi ích trong quá trình đi vào kỷ nguyên nông nghiệp thương mại sau khi đạt được sự tự cấp về lương thực. Định hướng chính sách kinh tế của Hàn Quốc đã được thay đổi từ tăng trưởng cao sang tăng trưởng ổn định và từ chính sách bảo hộ sang chính sách mở cửa thị trường. Đối với nông nghiệp cũng vậy.

Định hướng chính sách nông nghiệp đã được thay đổi từ tăng thu nhập nông nghiệp thông qua việc tăng sản xuất các loại hạt ngũ cốc và trợ giá sang chính sách tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân thông qua các nguồn thu phi nông nghiệp, tăng vụ, và tăng thu nhập từ chăn nuôi, hoa quả và rau xanh. Kết quả là công nghiệp nông thôn đã bắt đầu được đẩy mạnh trên cơ sở hình thành các tổ hợp nông - công nghiệp. Các ngành chăn nuôi và trồng rau thơm đã được mở rộng một cách nhanh chóng. Tương tự như vậy, các biện pháp chính sách của Chính phủ Hàn Quốc nhằm tự do hoá nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp có hiệu lực từ năm 1978. Tuy nhiên, không may là do thời tiết lạnh đột ngột xẩy ra vào năm 1980 đã làm giảm 36% tổng sản lượng gạo. Năm tiếp theo Hàn Quốc đã phải nhập khẩu gạo. Hơn nữa, nhập khẩu thịt bò tăng đã gây ra một cuộc khủng hoảng về giá năm 1984, và điều này đã xẩy ra khi các hộ gia đình nông dân được Chính phủ khuyến khích tăng sản lượng gia súc và tăng vụ. Giá cả các loại rau thơm và sản phẩm chăn nuôi biến động một cách thất thường. Tỉ lệ tự cấp lương thực đã bị giảm, trong khi đó các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu tăng mạnh. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hộ gia đình và nợ nần của các gia đình tăng cao.

Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các biện pháp phục hồi kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp. Tháng 3/1986, lần đầu tiên trong lịch sử quản lý nông nghiệp của Hàn Quốc “Giải pháp toàn diện cho các làng nông nghiệp và ngư nghiệp”đã được ban hành. Nội dung chủ yếu của giải pháp toàn diện này là mở rộng các tổ hợp công - nông nghiệp nhằm tăng thu nhập phi nông nghiệp cho nông dân, tăng trợ cấp thuế cho các nhà máy ở các vùng nông thôn, tăng cường cung cấp các nguồn vốn nông nghiệp nhằm tăng thu nhập nông nghiệp, và tăng cường các dự án dành cho nông dân và ngư dân.

Những năm tiếp theo có thể coi là bước quá độ trong chính sách quản lý nông nghiệp của Hàn Quốc tới giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hơn về nông nghiệp. Năm 1986 Vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay về tự do hoá thương mại toàn cầu bắt đầu được tổ chức. Từ 1986 đến 1989, cán cân thanh toán quốc tế của Hàn Quốc đạt thặng dư. Chính vì vậy Hàn Quốc không còn được hưởng chế độ ưu đãi về thương mại dành cho các nước có thâm hụt cán cân thanh toán theo các điều khoản của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Đồng thời, sức ép đối với việc mở cửa thị trường các sản phẩm nông nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Theo những kết luận của Vòng đàm phán Urugoay kết thúc vào năm 1993, nông nghiệp Hàn Quốc phải thay đổi để chuẩn bị cho một thị trường nông nghiệp mở cửa. Điều này đã đặt ra một nhiệm vụ cấp bách cho chính sách nông nghiệp là cải thiện cơ cấu ngành nông nghiệp sao cho có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh trước sức ép mở cửa thị trường nông sản trong nước. Trong những năm từ 1989 đến 1994 Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 3 nhóm giải pháp toàn diện. Đó là:

(1) Giải pháp toàn diện phát triển các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ tháng 4/1989. Nội dung chính của giải pháp này là thành lập Quỹ quản lý ruộng đất với chức năng cấp vốn cho những nông dân có nhu cầu mua ruộng đất nhằm thúc đẩy quá trình cải thiện cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ cũng chủ trương thành lập hệ thống tập đoàn nông nghiệp; phát triển các nguồn thu nhập phi nông nghiệp; lập kế hoạch phát triển các vùng dân cư; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp và công nghiệp xuất khẩu.

(2) Giải pháp cải thiện cơ cấu các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ năm 1991. Chính phủ dự định đầu tư 42 tỷ won để cải thiện cơ cấu các làng nông nghiệp và ngư nghiệp trong thời gian 10 năm (1992 - 2001).

(3) Cải cách chính sách nông nghiệp và giải pháp phát triển các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ năm 1994 là sự tiếp tục của các giải pháp toàn diện được thực hiện từ năm 1989. Dự án đầu tư 42 tỷ won dự định kết thúc vào năm 2001 sẽ được kết thúc sớm hơn vào năm 1998 và mở rộng các nguồn vốn đầu tư cho nông dân và ngư dân bằng cách dành một khoản thu thuế đặc biệt với tổng số tiền là 15 tỷ won. Tháng 11 năm 1997, Hàn Quốc phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chính chỉ một năm sau khi nước này trở thành thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Nền kinh tế Hàn Quốc lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn. Chính phủ Hàn Quốc đã phải viện đến sự giúp đỡ của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) để khắc phục khủng hoảng. IMF đã cung cấp các nguồn tài chính cho Hàn Quốc với một số điều kiện ràng buộc trong đó có vấn đề phải đẩy mạnh cải cách kinh tế và xã hội. Chính phủ Hàn Quốc đã chấp thuận và thực hiện một cuộc tái cơ cấu một cách mạnh mẽ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngành nông nghiệp cũng nằm trong số những lĩnh vực quan trọng được tái cơ cấu trong thời gian đó.

2.3. Hội nhập quốc tế về nông nghiệp (từ 1995 đến nay)

Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn cải cách chính sách nông nghiệp. Sau khi Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập, nền nông nghiệp Hàn Quốc vốn đã phải đương đầu với sức ép mở cửa từ những năm trước đó lại càng gặp khó khăn hơn khi phải đáp ứng những điều kiện khắt khe của WTO về tự do hoá các sản phẩm nông nghiệp. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, giá vật tư nông nghiệp tăng nhanh từ đầu năm 1998 làm cho sản xuất nông nghiệp càng bị thua lỗ, nhiều nông trại bị đặt trước tình trạng phá sản do không hoàn trả được các khoản tín dụng đã vay. Trước tình hình đó, Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ưu tiên chính sách cao nhất vào việc ổn định kinh tế nông hộ nhằm phục hồi kinh tế nông thôn. Để thực hiện điều này, Chính phủ đã chủ trương giảm nợ hoặc hoãn nợ cho các hộ gia đình nông dân và giảm hoặc miễn lãi cho vay; đồng thời ban hành “Luật đặc biệt về giảm nợ cho nông dân và ngư dân". Định hướng cơ bản của chính sách nông nghiệp đã có sự thay đổi bước ngoặt từ mở rộng quy mô nông trại trước đó sang khuyến khích phát triển nông nghiệp thân thiện môi trường trên cơ sở các nông trại quy mô vừa và nhỏ và nâng cao chất lượng cạnh tranh.

Cụ thể là, Chính phủ đã thực hiện một cách có hiệu lực các biện pháp cải cách phân phối sản phẩm nông nghiệp, vấn đề này bao gồm việc mở rộng các giao dịch trực tiếp, đa dạng hoá các phương pháp giao dịch ở thị trường bán buôn công cộng, và thực hiện hệ thống đặt hàng phân phối. Năm 1998, Chính phủ đã ban hành “Luật cơ bản về nông nghiệp và nông trại"và tiến hành cải cách các tổ chức nông nghiệp có liên quan. Năm 2000, Chính phủ đã hợp nhất Liên hiệp các HTX nông nghiệp quốc gia, Liên hiệp các HTX chăn nuôi quốc gia, Liên hiệp các HTX sâm Hàn Quốc, Tập đoàn phát triển nông thôn - một cơ quan quản lý nước, và Hiệp hội cải tiến đất trồng thành một tổ chức duy nhất nhằm thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa những người nông dân, người tiêu dùng và Chính phủ để nông dân và những người tiêu dùng có thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Đây cũng đữợc coi là một sự thay đổi quan trọng.

Kể từ năm 2000, những nỗ lực của Hàn Quốc trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) đã bắt đầu tạo ra những bước tiến trong trào lưu chung của thế giới hướng tới tự do hoá thương mại. Thậm chí dù Hàn Quốc đã từng rất bảo thủ đối với FTA, sự kết thúc thành công của các cuộc đàm phán FTA với Chi Lê vào năm 2002 đã tạo ra một bước ngoặt mới trong chính sách FTA của nước này. Tiếp theo đó, Hàn Quốc đã ký các hiệp định thương mại hàng hoá với Singapore năm 2004, Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 2005 và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2006. Năm 2007, Hàn Quốc đã ký các FTA với Mỹ và hiện nay đang đàm phán các FTA với Nhật Bản, Mehicô, EU, Ấn Độ, và Canada.

Để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong bối cảnh mới nói trên, cơ sở của chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc đã thay đổi theo hướng lấy người tiêu dùng làm tiêu điểm. Chính phủ Hàn Quốc đã chủ trương tăng cường mức độ tin tưởng và thoả mãn của người tiêu dùng bằng việc xây dựng cơ sở sản xuất và phân phối 40 sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao của Hàn Quốc, và đẩy mạnh việc kiểm tra an toàn lương thực thực phẩm, dán tem nguồn gốc của sản phẩm, và hệ thống đảm bảo chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Một thay đổi lớn khác là đẩy mạnh chính sách đối với thu nhập của nông dân và các làng nông nghiệp. Chính phủ đã sử dụng hệ thống đền bù trực tiếp cho các diện tích trồng lúa nước từ năm 2000 sau khi tham khảo kinh nghiệm áp dụng từ các nước tiên tiến. Năm 2002, Chính phủ cũng đã sử dụng hệ thống đền bù trực tiếp đối với thu nhập từ việc canh tác lúa nước. Hơn nữa, Chính phủ đã ban hành “Luật đặc biệt về cải thiện chất lượng cuộc sống” vào năm 2005 nhằm cải thiện phúc lợi ở các vùng nông thôn bằng các chính sách thích hợp.

Nhằm tái tạo sức sống ở các vùng nông thôn kinh tế trì trệ, Chính phủ đã sựa đổi một số điều khoản chính sách và cải tiến các hệ thống có liên quan nhằm tạo điều kiện cho nguồn vốn từ thành thị có thể đổ về các vùng nông thôn, khuyến khích những trao đổi giữa thành thị và nông thôn và đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn.

Tóm lại, sự phát triển nông nghiệp của Hàn Quốc từ năm 1948 đến nay đã trải qua 3 giai đoạn chủ yếu. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nông nghiệp Hàn Quốc phải đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và nguồn lao động cần thiết cho sự phát triển của các ngành công nghiệp. Vấn đề tự cung tự cấp, đặc biệt là đối với những sản phẩm nông nghiệp thiết yếu như lúa gạo, thịt, sữa... là một yêu cầu quan trọng hàng đầu đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách của Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh của các ngành công nghiệp trong thời kỳ đầu đã làm cho khoảng cách phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Nông nghiệp trở nên ngày càng lạc hậu so với công nghiệp, đất đai nông nghiệp được sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp ngày càng nhiều trong khi nguồn tài nguyên không thể tái tạo này của Hàn Quốc cũng hết sức khan hiếm. Thêm vào đó, những yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nông nghiệp phải mở cửa hơn nữa trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc cần được điều chỉnh theo hướng chú trọng hơn đến sự phát triển bền vững, duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên nông nghiệp như đất và nước, hiện đại hóa nông thôn và tăng cường năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm nông nghiệp.

Nhìn chung, các chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn của Hàn Quốc đã thu được những kết quả khả quan, đem lại một diện mạo mới cho sự phát triển hiện đại của nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hiện nay nền nông nghiệp Hàn Quốc nói riêng và kinh tế Hàn Quốc nói chung vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Đó là việc mở cửa các thị trường sản phẩm nông nghiệp; khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và thành thị tuy đã được thu hẹp phần nào nhờ các chính sách được thực hiện trong thời - gian qua song vẫn còn khá lớn; những thay đổi về nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm nông nghiệp, theo đó sở thích của người tiêu dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp thân thiện môi trường ngày càng tăng lên; trợ cấp nông nghiệp cao làm cho có sự chênh lệch lớn về giá cả sản phẩm nông nghiệp giữa giá trong nước và giá quốc tế hạn chế cạnh tranh; và vấn đề sử dụng phân hoá học trong nông nghiệp đang đặt ra những vấn đề lớn đối với môi trường và đất nông nghiệp. Đây là những vấn đề mà Chính phủ Hàn Quốc đang phải đối mặt và cần có những biện pháp chính sách hữu hiệu hơn để giải quyết trong thời gian tới.

1. Ban, Sung-Hwan, The Growth of Agricultural Output and Productivity in Korea, 1918 - 1978,Journal of Rural Development 4:1 (June 1981): 1-18.

2. Bank of Korea (2006a), Economic Statistics Yearbook 2006, Seoul, Korea.

3. Kim, Chang-Gil (2007a), Policies on environmentally friendly agricultural practices in developed countries and their policy implications for Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

4. Kim, Chang-Gil (2007b), Strategy for environmentally friendly agriculture in Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

5. KREI (1999), Agriculture in Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

6. KREI (2006), Outlook of Koreanagriculture in 2006,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

7. MAF (1997), White paper on agricultural policy reforms in Korea,Seoul, Korea.

8. MAF (2005a), Manual on the implementation of agricultural projects,Seoul, Korea.

9. MAF (2006a), Statistical Yearbook of Agriculture and Forestry,Seoul, Korea.

10. MAF (2006b), Major statistics of Korean Agriculture and Forestry,Seoul, Korea.

11. OECD (1998), Review of Agricultural Policies in Korea,Paris.

12. OECD (2006c), Agricultural policies in OECD countries: At a glance 2006,Paris.

Hiện nay, trên thế giới xu hướng toàn cầu hoá và tự do hóa đang là hai xu hướng chủ đạo, đặt ra cho mỗi nước những yêu cầu, thách thức và cơ hội mới. Phải làm sao để không bị tụt hậu, bị bỏ lại trên sân chơi chung thế giới. Đi đôi với xu hướng toàn cầu hoá là quá trình phân công lao động quốc tế. Theo hai nhà kinh tế học hecker và Ohin thì các nước sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của mình – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố dư thừa, và nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất nhưng phải chịu những chi phí cao hơn là nhập khẩu từ nước khác – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào là xuất khẩu và thế nào là nhập khẩu. Xuất khẩu là việc một quốc gia mua hàng hoá từ một nước khác về để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là việc một quốc gia đem hàng hoá của nước mình sang một nước khác để phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của nước đó và đem doanh thu thu được về nước mình. Chúng ta biết rằng GDP(giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuật ra trong một nước trong một thời kì nhất định) được tính như sau: GDP= C+I+G+NX Trong đó NX chính là xuất khẩu ròng, bằng sản lượng xuất khẩu trừ đi sản lượng nhập khẩu.Chính vì thế xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và mọi mặt đời sống của một quốc gia nói chung. Do dó một chính sách xuất nhập khẩu hợp lí sẽ ảnh hưởng tốt đến phát triển.

Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách và biện pháp hợp lí trong xuất khẩu tại Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, trên thế giới xu hướng toàn cầu hoá và tự do hóa đang là hai xu hướng chủ đạo, đặt ra cho mỗi nước những yêu cầu, thách thức và cơ hội mới. Phải làm sao để không bị tụt hậu, bị bỏ lại trên sân chơi chung thế giới. Đi đôi với xu hướng toàn cầu hoá là quá trình phân công lao động quốc tế. Theo hai nhà kinh tế học hecker và Ohin thì các nước sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của mình – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố dư thừa, và nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất nhưng phải chịu những chi phí cao hơn là nhập khẩu từ nước khác – tức là những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào là xuất khẩu và thế nào là nhập khẩu. Xuất khẩu là việc một quốc gia mua hàng hoá từ một nước khác về để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là việc một quốc gia đem hàng hoá của nước mình sang một nước khác để phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của nước đó và đem doanh thu thu được về nước mình. Chúng ta biết rằng GDP(giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuật ra trong một nước trong một thời kì nhất định) được tính như sau: GDP= C+I+G+NX Trong đó NX chính là xuất khẩu ròng, bằng sản lượng xuất khẩu trừ đi sản lượng nhập khẩu.Chính vì thế xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và mọi mặt đời sống của một quốc gia nói chung. Do dó một chính sách xuất nhập khẩu hợp lí sẽ ảnh hưởng tốt đến phát triển. Trong những năm gần đây Trung Quốc đã xây dựng được rất nhiều tiếng vang trên trường quốc tế. Tăng trưởng kinh tế luôn ở mức hàng đầu thế giới. Sở dĩ Trung Quốc có được những thành công đó là nhờ rất lớn vào các chính sách hợp lí trong xuất nhập khẩu nhất là xuất khẩu. Những chính sách và biện pháp đó thực sự là bài học quý giá cho bấy kỳ quốc gia nào nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt nam. Vậy những bài học đó là gì, chúng ta nên học hỏi điều gì và loại bỏ điều gì? Đây thực sự là vấn đề nên nghiên cứu. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRUNG QUỐC TRONG NHỮNG NĂM QUA 1.1 sơ qua về tình hình kinh tế của Trung Quốc Trung quốc là một nhà nước hai chế độ vớii đại lục Trung Quốc theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa và hai đặc khu là Hồng kông và Macao theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước Trung Quốc được chính thức thành lập ngày 01/10/1949. Trung quốc là một nước có rất nhiều lợi thế với diện tích rộng lớn 9596960 km vuông; tài nguyên thiên nhiên phong phú; lực lượng lao động dồi dào dân số tính đến năm 2006 là gần 1.3 tỷ người, lương đòi hỏi tương đối thấp lại có truyền thống lao động sáng tạo từ xa xưa để lại. Vì thế đây thực sự là những ưu đãi và nền tảng vững chắc để phát triển sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Và thực tế đã cho thấy Trung Quốc đã sử dụng và phát huy rất tốt những lợi thế đó. Suốt 26 năm qua tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc luôn là hơn 9.5 %. Trong đó tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm để so sánh giá trị GDP năm được tính và GDP năm liền trước, được tính theo công thức: (GDPnăm nay – GDPnăm trước)x100% GDP năm trước Sau đây là bảng thống kê về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từ năm 2002 đến năm 2006. Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Tốc độ tăng GDP 9,7% 10% 10.1% 10,4% 10,7 % Bảng thống kê về kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu ròng từ năm 2002 đến 2006. Trong đó xuất khẩu ròng là hiệu giữa tổng giá trị xuất khẩu trừ đi tổng giá trị nhập khẩu. Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuât khẩu ròng 2002 325,57 tỷ $ 295,22 tỷ $ 30,35 Tỷ $ 2003 32 Tỷ $ 2004 762,3 Tỷ $ 660,2 Tỷ $ 102,1Tỷ $ 2005 763 Tỷ $ 660 Tỷ $ 103 Tỷ $ 2006 969 Tỷ $ 792 tỷ $ 177 Tỷ $ Theo bộ thương mại Trung Quốc thì năm 2006 kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 1750 tỷ USD tăng 24%( tức khoảng 330 tỷ USD) so với năm 2005. Số liệu này khá sát với dự đoán 1758 tỷ USD của nước này trước đó. Điều này cho thấy Trung Quốc đã có những chuyên gia đánh giá và dự báo kinh tế có trình độ chuyên môn tốt như thế nào. Dự Trữ ngoại hối của họ năm vừa qua đã lên tới con số kỉ lục là một ngàn tỷ đôla. Với mức giữ trữ ngoại hối này thì có thể nói không một quốc gia hay nhà đầu tư nào có thể làm thay đổi và ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường tài chính của họ. Cũng từ các bảng thống kê trên chúng ta có thể phần nào hình dung ra sự ngày càng lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng của họ liên tục tăng và tăng với con số đáng mơ ước. Kim ngạch xuất khẩu cũng liên tục tăng với sự gia tăng của xuất khẩu có xu hướng ngày càng nhanh hơn nhập khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu chính là: điện tử học, máy móc, hàng dệt may, dụng cụ quang học, máy chụp ảnh, thiết bị y học, đồ gia dụng và sản phẩm nông nghiệp. Các đối tác chủ yếu nhập khẩu hàng của họ là Mĩ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, ASEAN, ... Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là đồ điện tử, máy móc, sản phẩm dầu mỏ, hoá chất...các đối tác chính là nhật bản, EU, Đài Loan, Hàn Quốc. Hàng hoá của họ thường có thế mạnh là hành hoá giá rẻ, mẫu mã đẹp, chất lượng cũng chấp nhận được. Như vậy là Trung Quốc đã mở rộng quận hệ buôn bán từ 180 nước vào năm 1980( thời kì đầu dổi mới) lên 228 nước trong giai đoạn hiện nay. Vơi mười đối tác lớn tổng hợp chung là Nhật Bản, Mĩ , EU, Hồng Kông, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan, Nga, úc, Canada. Ngoài những thành tựu đạt được trên mặt kinh tế thì Trung Quốc cũng đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên các mặt chính trị, văn hoá, đời sống và khoa hoc công nghệ. Từ chỗ gặp phải những rắc rối trong đường lối, trong quản lý và thể chế, Trung Quốc đã nhanh chóng bình ổn chính trị trong và ngoài nước. Vai trò và vị thế ngày càng được nâng cao trên trưồng quốc tế. Thể chế xã hội vẫn được duy trì và có xu hướng ngày càng vững mạnh. Bản sắc dân tộc lâu đời của nhân dân Trung Hoa được giìn giữ và ngày càng có ảnh hưởng trên thế giới. Văn hóa Trung Hoa được truyền bá rộng rãi cùng với đó là sự trở về của rất nhiều Hoa kiều trên khắp thế giới. Đặc biệt đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiên rõ rệt. Số người giàu tăng lên nhanh chóng, cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng đầy đủ. Trong đó một bộ phân lao động nhạy cảm là nông đân cũng đã được nâng cao đời sống rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người của nông dân năm 2006 là 460 $ tăng 17% so với năm 2005. Khoa học công nghệ của Trung Quốc cũng phát triển hết sức mạnh mẽ, với rất nhiều thành công trong vật lý, sinh học, y tế. Trong đó ngành nhân giống, lai tạo giống của họ là một ngành rất có thế mạnh. Các dịch vụ chăm sóc, nghiên cứu y tế cũng ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, năm 2005 Trung quốc phóng thành công tàu vũ trụ có người lái Tuần Châu năm vào vũ trụ, đánh dấu bước phát triển của Trung Quốc trong lĩnh vực hàng không nói riêng và công nghệ cao nói chung. 1.2 Trung quốc đã làm gì để có được những thành quả trên. Trước hết phải nói đến chiến lược phát triển kinh tế của Trung quốc. Năm 1978, căn cứ vào xu thế của thế giới và tình hình trong nước lúc bấy giờ, Trung quốc chính thức thực hiện đổi mới đất nước với khẩu hiệu “ xây dựngnhà nước Xã Hội chủ Nghĩa mang màu sắc Trung Quốc”, dỡ bỏ chế độ bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường và thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế. Trong đó, nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá mà giá cả và sản lượng được quyết định chủ yếu bởi hai yếu tố là cung và cầu. Dỡ bỏ chế độ quan liêu bao cấp, thực hiện kinh tế thị trường sẽ làm cho mỗi tác nhân trong nền kinh tế, nhất là con người trở nên năng động hơn. Họ bị kích thích bởi chính lợi ích, nhu cầu bản thân và con người xung quanh nên tự khắc sẽ phải lao động sáng tạo. Hơn nữa, họ không còn được nhà nước bao cấp hỗ trợ nữa, do đó nếu không lao động tốt hơn họ sẽ bị thị trường đào thải. Từ đó sẽ khai thác được tối đa năng lực lao động của con người và khả năng sáng tạo của họ. “Chiến lược mở cửa nền kinh tế” là việc các quốc gia tiến hành mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt chú trọng hoạt động ngoại thương, đẩy mạnh xuât khẩu và vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ để khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Cụ thể là: thực hiện tự do hoá thương mại, dở bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Cụ thể là ban hành luật tự do kinh doanh, tự do sản xuất, trao đổi buôn bán trong những lĩnh vực hợp pháp. Cắt giảm thuế đối với hàng xuất nhập khẩu, thay cho việc đánh thuế rất cao như trước đây nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá giữa trong nước với nước ngoài. Dở bỏ các định chế trong pháp luật như quy định về hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu...hay xoá bỏ hay giảm bớt những yêu cầu về mẫu mã hàng hóa, bao bì, in ấn, xuất xứ của hàng hóa...Có thể thấy qua tham khảo bảng biểu vè mức thuế quan trung bình của Trung Quốc Trong Những thập niên gần đây: Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2001 2002 42,5 39.9 36,4 35,9 23 17 16,7 16,5 15,2 12 Khuyến khích xuất khẩu lấy mục tiêu thoả mãn thị trường thế giới. Trung Quốc sản xuất không phải chỉ để thoã mãn nhu cầu của người Trung Quốc mà còn chú trọng vào yêu cầu của người tiêu dùng nước ngoài. Họ đã cải tiến hàng hoá của mình sao cho phù hợp với yêu cầu thẩm mĩ, văn hoá, điều kiện tự nhiên của người tiêu dùng nước ngoài. Bởi lẽ, bán được nhiều hàng hoá cho nước ngoài đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã lấy được lợi nhuận từ nước đó mang về nước mình. Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Muốn phát triển kinh tế cần phải có những yếu tố như vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng, máy móc...Chỉ có cách thu hút đầu tư nước ngoài mới có thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Một khi mời gọi được đầu tư nước ngoài nghĩa là đã lợi dụng được nguồn vốn của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư sẽ đem theo khoa học công nghệ tiên tiến nhằm trang thiết bị cho sản xuất trong nước, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá, tạo ra nhũng cơ hội học hỏi. Kèm theo đó là một lượng lớn việc làm được tạo ra, giải quyết nạn thất nghiệp. Tăng thu ngoại tệ để thõa mãn các yêu cầu khác. Mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại. Biểu hiện như là hợp tác đa phương và song phương với các quốc gia khác. Tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nhu WTO( tổ chức thương mại thế giới), AFTA(tổ chức hợp tác kinh tế châu á thái bình dương)....hợp tác một mặt hay nhiều mặt ... Cũng như tất cả các nước khác khi thực hiện việc mở vửa nền kinh tế, Trung Quốc cũng phải đứng trước những thách thức và cơ hội mới. Cơ hội mà chiến lược mở cửa kinh tế tạo ra là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn. Đây là kết quả của hàng loạt các thay đổi trong kinh tế do việc mở của hội nhập mang lại. Có cơ hội để huy động nguồn lực bên ngoài để khai thác các nguồn tài nguyên và lao động trong nước. Thu ngoại tệ tăng lên để thõa mãn nhu cầu nhập khẩu... Tạo ra môi trường canh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất. Mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Song bên cạch những cơ hội đó Trung Quốc phải đứng trước những khó khăn sau: Khi mở cửa, nền kinh tế dễ bị tác động bởi các nhân tố bên ngoài như tăng giá nhiên liệu, chính sách tỷ giá hối đoái. Nhiều ngành sản xuất nội địa không tồn tại được. Gây nên tình trạng mất cân đối giữa các ngành, các vùng. Vậy Trung Quốc đã làm gì, thực hiện những chính sách gì để có được thành quả đáng học hỏi như ngày hôm nay? Sau đây là một vài bước đi hiệu quả tiêu biểu. *hội nhập sâu rộng và mạnh mẽ. Vào WTO năm 2001 sau khi mất 15 năm đàm phán. Vào APEC năm 1991. đầu tư vào các yếu tố sản xuât. trung quốc hiểu rằng để có thể sản xuất tốt và xuất khẩu có hiệu quả thì cần phả đầu tư phát triển nhiều yếu tố đầu vào như nguyên liệu, nhiên liệu, công nghệ, nhân công. Họ đã xây đựng rất nhiều nhà máy, thuỷ điện, nhiệt điện để đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng về điện năng. Không như Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng thiếu điện trầm trọng. Thậm chí họ đang tích cực thúc đẩy nghiên cứu về năng lượng hạt nhân, một lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với nhiều nước trên thế giới. Thêm vào đó, với dân số 1,3 tỷ người thìi nguồn nhân lực mà Trung Quốc đang nắm giữ chắc hẳn phải khiến các Quócc gia khác trên thế giới kính nể.Với nguồn nhân lực dồi dào,có điều kiện pháp triẻn lại đựoc sự quan tâm tạo điề kiện cho phát triển nguồn nhân lực thì đó trở thành một yếu tố rất mạnh trong quá trình phát triển kinh tế đất nứơc nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Nhà Nước Trung Quốc ỡa quan tâm đúng mức đến giáo ục, y tế văn hoá, chẳng những nhằm nâng cao đời sống văn hoá mà còn cả phát triển đời sống tinh thần cho nhân dân. Những năm gần đây Trung Quốc đã nổi lên như là một hiện tưọng của thế giới.Với việc mở rộng quy mô đào tạo, các loại hình đào tạo, giáo dục Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt đáng kể. Có thể nói không quá lời rằng người Trung Quốc thật là giỏi. Họkhông những khiến cả thế giới phải khâm phục vì Lịch sử hào hùng đã qua mà cả trong hiện tại. Với sự tài hoà thông minh, nhanh nhạy ngưòi Trung Quốc luôn bắt kịp với phong cách tiêu dùng của thế giới,có thể thấy rõ qua viếc sản phẩm Trung quốc tràn ngập thị trường Việt Nam như trong thời gian qua để làm minh chứng rõ nét nhất với các sản phẩm dệt may,gia dung,thời trang,đồ điện tử,... Không chỉ thu hút nguồn chất xám trong nước mà còn mở rộng cánh của để thu hút các nguồn lực bên ngoài. Song song với đó Y học Trung quốc cũng phát triẻn.Với một lịch sử truyền thống văn hoá lâu đời, thì Y học,Văn hoá trung Quốc chính là điểm nà các nước khác trên thế giới như nước ta phải ngưỡng mộ và học hỏi nhiều điều, cùng với việc phát triển con người, việc đầu tư cho sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng là vấn đề được quan tâm chú ý. Việc Trung Quốc đã sử dụng được nguồn nguyên liệu tái sử dung(tái chế nguyên liệu)là vấn đề mà rất nhiều các nước trên thế giới quan tâm.Việc làm đó của Trung Quốc không những hạn chế được việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đất nước một cách bừa bãi mà con giảm đựơc chi phí đầu vào do giá thành nguyên liệu loại này tương đối rẻ, nhờ đó mà tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho Trung Quốc. Sản phẩm của Trung Quốc không chỉ có mẫu mã đẹp, phong phú mà còn có giá thành rất rẻ khá được ưa chuộng.Tuy một vài sản phẩm có chất lượng chưa cao song suy cho cùng các mặt hàng do người Trung quốc làm ra đã đánh trúng tâm lí tiêu dùng của một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng. Cuối cùng không thể không nhắc tới nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Không chỉ huy động từ nguồn vốn trong nước,Trung Quốc đã huy động được nguồn vốn rất lớn từ bên ngoài nhờ mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác, xúc tiến đấu tư, xúc tiến thương mại,…Cùng với đó là các chính sách ưu đãi, các biện pháp thuế quan và phi thuế quan nhằm mở cửa và mời gọi các nhà đầu tư quốc tế đổ vồn vào Trung Quốc như mở các Đặc khu Kinh tế. Mà tại đó các nhà lãnh đạo có quyền điều hành và quyết định tuỳ theo tình hình kinh tế và phát triển của đặc khu mình sao cho không làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước chỉ hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô và gián tiếp quản lí thông qua hệ thống chính sấch của mình. Tại các Đặc khu này các nhà đầu tư được ưu tiên rất nhiều như được miễn thuế, giảm các thủ tục hành chính khác,…Bên cạnh đó, Trung quốc còn tích cực mở rộng cửa khẩu biên giới Đông Bắc, Tây nam, Với đường biên dài 2,2 vạn Km