Tình Hình Kinh Tế Mỹ Năm 2022

Tình Hình Kinh Tế Mỹ Năm 2022

Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:

Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:

b) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Trong 6 tháng đầu năm 2022, đã tiếp nhận 95 người vào Trung tâm nuôi dưỡng Bảo trợ xã hội. Tổng số lượng các đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội là 738 người (bằng 101,37% so với cùng kỳ năm ngoái). Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố đạt 160 lượt người (giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. Thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo vay vốn từ ngân hàng Chính sách xã hội: tổng dư nợ vốn vay học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo đạt 86.662 triệu đồng với 2.792 học sinh, sinh viên được vay vốn; tổng dư nợ hộ nghèo đạt 161.136 triệu đồng với 4.167 hộ nghèo; tổng dư nợ hộ cận nghèo đạt 1.253.611 triệu đồng với 30.327 hộ cận nghèo; tổng dư nợ hộ mới thoát nghèo đạt 524.201 triệu đồng với 12.766 hộ mới thoát nghèo. Hỗ trợ tiền điện cho 8.717 hộ nghèo với tổng số tiền tương đương 2.876 triệu đồng.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 1.141 lượt người (bằng 67,92% so với cùng kỳ năm trước); cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 107 người (bằng 125,88% so với cùng kỳ năm trước).

c) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao

Công tác giáo dục: Trong tháng 6/2022, thành phố đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2022-2023, công tác tổ chức kỳ thi tại 100% Hội đồng coi thi được triển khai đúng quy định, diễn ra an toàn và nghiêm túc, kỷ luật thi được siết chặt, các trường hợp vi phạm quy chế đều được xử lý nghiêm, các phương án bảo đảm an toàn trong thi cử được thực hiện nghiêm ngặt.

Công tác y tế dự phòng: Trong 6 tháng đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 của thành phố diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, đời sống an sinh xã hội và tình hình kinh tế chung của toàn thành phố.

Tính đến ngày 25/6/2022, số ca hồi phục xuất viện là 325.208 ca; đang điều trị là 336 ca; số ca tử vong là 156 ca.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm 2022, thực hiện 07 đợt kiểm tra, trong đó: 03 đợt kiểm tra định kỳ là Tết Nguyên đán, Bếp ăn tập thể, Tháng hành động an toàn thực phẩm; 04 đợt kiểm tra đột xuất. Kiểm tra được 234 cơ sở, trong đó: số cơ sở đạt là 188 cơ sở, số cơ sở vi phạm là 12 cơ sở; xử lý và phạt tiền 94,3 triệu đồng.

Số cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP là 130 cơ sở. Hồ sơ tự công bố là 50 bộ; cấp giấy công bố sản phẩm: 6 giấy. Trong tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022, không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, lũy tích người nhiễm HIV là 11.589 người; lũy tích số người chuyển sang AIDS là 6.347 người; lũy tích số người chết do AIDS là  5.379 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.210 người.

Tính đến tháng 6/2022, Ngành y tế đang điều trị Methadone cho 2.759 bệnh nhân; đề án Thí điểm cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày đã cấp cho 454 bệnh nhân tại 05 cơ sở điều trị.

Công tác văn hóa - thể thao: Thành phố đã tổ chức các Chương trình, Hội nghị theo kế hoạch công tác như: sơ kết công tác văn hóa, gia đình và thể dục thể thao năm 2022; phát động Cuộc thi sáng tác biểu tượng thành phố Hải Phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh; sơ kết công tác triển khai thực hiện chương trình sân khấu truyền hình 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2022; tổng kết các công tác tổ chức các hoạt động chào mừng các sự kiện trong tháng 5 năm 2022 và Lễ hội Hoa Phượng Đỏ - Hải Phòng 2022.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 31 người và bị thương 04 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 06 vụ với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 15,38%), số người chết giảm 01 người so với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 3,13%) và số người bị thương giảm 16 người năm ngoái (tương ứng giảm 80%).

e) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ cháy, giảm 14 vụ so với cùng kỳ năm trước (tương ứng giảm 30,43%), làm 01 người chết, không có người bị thương, nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 8,1 ha, các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản./.

Năm 2022, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa nước ngày càng gay gắt; xung đột quân sự Nga - U-crai-na xảy ra và kéo dài; lạm phát tăng mạnh ở nhiều quốc gia, xu hướng tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khoá dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu; rủi ro tài chính, tiền tệ gia tăng; nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, an ninh lương thực ngày càng hiện hữu... Trong nước, áp lực lạm phát tăng cao; giá xăng, dầu, nguyên, vật liệu, các yếu tố đầu vào biến động mạnh, ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực; tiêu thụ nông sản gặp khó khăn khi thị trường Trung Quốc đóng cửa để phòng chống dịch, hàng hóa bị ùn ứ ở cửa khẩu, giá các sản phẩm như: mít, thanh long ... giảm mạnh gây nhiều khó khăn, thiệt hại cho sản xuất và đời sống người dân.

Với sự tập trung lãnh đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo điều hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm của Ủy ban nhân dân tỉnh, giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh, cùng với sự nổ lực và đồng thuận của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân nên kinh tế của tỉnh từng bước phục hồi, tăng trưởng quí sau cao hơn quí trước. Các hoạt động văn hóa, xã hội, vui chơi giải trí dần được khởi sắc trở lại; công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thực hiện tốt theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, thúc đẩy nhanh tiến độ tiêm phòng vacxin mũi 3 - 4, đã khống chế được dịch trên địa bàn tỉnh. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2022 đều đạt và vượt kế hoạch năm. Kết quả cụ thể như sau:

I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh năm 2022 ước đạt 62.881 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 7,02% so cùng kỳ (6 tháng đầu năm tăng 4,33%, 6 tháng cuối năm tăng 9,67% so cùng kỳ), đạt kế hoạch năm (kế hoạch tăng từ 6%-7%), khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,51%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,76% và khu vực dịch vụ tăng 7,79% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm). Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 8,75 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,07% so cùng kỳ.

Trong 7,02% tăng trưởng, thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 1,31%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 2,98%, khu vực dịch vụ đóng góp 2,55% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 0,18%.

GRDP nếu tính theo giá thực tế năm 2022 đạt 112.819 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 63,2 triệu đồng/người/năm, tăng 7 triệu đồng/người/năm so năm 2021. Tính theo giá USD, GRDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 2.695 USD/người/năm, tăng 10,4%, tương đương tăng 254 USD so năm 2021 (năm 2021 đạt 2.441 USD/người/năm).

Cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản; Năm 2022 khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 37,4%, giảm 1,4% so năm 2021 (năm 2021 chiếm 38,8%); Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 27,8%, tăng 2% so năm 2021 (năm 2021 chiếm 25,8%); Khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm chiếm 34,8%, giảm 0,6% so năm 2021 (năm 2021 chiếm 35,4%); (Kế hoạch năm 2022 KV1: 37,5%, KV2: 27,8%, KV3: 34,7%).

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân sau thời gian ảnh hưởng dịch Covid-19, để khôi phục và phát triển kinh tế. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ, thực hiện các chính sách miễn, giảm một số khoản thu, trong đó giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% từ ngày 01/02/2022 đến ngày 31/12/2022 đối với một số mặt hàng. Ngoài ra, Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26/11/2021 của Chính phủ quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước được giảm 50% từ ngày 01/12/2021 đến ngày 31/5/2022). Đối với tỉnh Tiền Giang được sự chỉ đạo xuyên suốt của Tỉnh ủy trong việc tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chỉ thị số 04/CT-UBND ngày 10/02/2022 về việc tăng cường công tác thu ngân sách nhà nước năm 2022, thu ngân sách địa phương đạt được kết quả đáng khích lệ.

Thu ngân sách nhà nước: năm 2022 ước thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 10.665 tỷ đồng, tăng 23,6% so cùng kỳ; trong đó: thu nội địa 10.280 tỷ đồng, đạt 120,8% dự toán, tăng 25,4% so cùng kỳ.

Một số khoản thu đạt và vượt so với dự toán năm, cụ thể:

- Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3.231,140 tỷ đồng, đạt 117,50% so với dự toán, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân đạt cao do hoạt động sản xuất kinh doanh; các loại hình dịch vụ mở cửa hoạt động trở lại bình thường.

- Thu từ khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh là 1.330 tỷ đồng, đạt 138,54% so với dự toán năm, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm trước. Dù thực hiện các chính sách miễn, giảm một số khoản thu làm ảnh hưởng đến số thu ngân sách nhà nước đối với khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh; đồng thời, việc áp dụng hình thức hóa đơn điện tử, một số doanh nghiệp lớn như Thế giới di động, Điện máy xanh...thực hiện hạch toán về Công ty mẹ nên các khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng... cũng làm giảm khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh; tuy nhiên, nguồn thu khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh vẫn đạt cao do hoạt động sản xuất, kinh doanh đã đần phục hồi, tuy chưa thật sự khởi sắc như thời gian trước dịch Covid-19 nhưng đã có những tín hiệu tích cực.

- Thu tiền sử dụng đất là 1.160 tỷ đồng, đạt 165,71% so với dự toán năm, tăng 91,52% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân đạt cao do phát sinh số thu từ ghi nợ tiền sử dụng đất theo Nghị định số 79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019 của Chính phủ sửa đổi Điều 16 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; bán đấu giá các trụ sở như: trụ sở Hội Chữ thập đỏ cũ, trụ sở Chi cục Kiểm lâm, trụ sở Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng cũ,...

Có 11/11 huyện, thành thị có tỷ lệ thu cả năm vượt dự toán, các đơn vị đạt cao như: Thành phố Mỹ Tho là 900 tỷ đồng, đạt 114,4%; Thị xã Gò Công là 295 tỷ đồng, đạt 248,9%; huyện Cái Bè là 230 tỷ đồng, đạt 154,9%; huyện Châu Thành là 275 tỷ đồng, đạt 154,5% dự toán... Ngoài ra, khoản thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu ước thực hiện cả năm 2022 là 385 tỷ đồng, đạt 122,22% so với dự toán. Nguồn thu này chủ yếu từ nhập khẩu máy móc thiết bị, các sản phẩm từ thép, ống đồng, hạt nhựa, phụ gia trong chế biến thủy sản và từ dự án điện gió của Công ty Cổ phần Năng lượng điện gió Tiền Giang.

Chi ngân sách nhà nước: năm 2022 ước chi 17.911 tỷ đồng, đạt 145,8% dự toán, tăng 32,5% so cùng kỳ. Việc điều hành chi ngân sách căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà nước; Thông tư số 122/2021/TT-BTC ngày 24/12/2021 của Bộ Tài chính về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 và các chế độ, định mức chi tiêu, dự toán chi ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang thông qua, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định giao cho từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, kết quả thực hiện chi ngân sách địa phương năm 2022 đã đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các đơn vị, địa phương.

- Chi đầu tư phát triển: thực hiện giao dự toán vốn đầu tư ngay từ đầu năm và các Chủ đầu tư dự án trên địa bàn tỉnh hoàn thành tốt công tác chuẩn bị đầu tư nên việc đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Ước chi đầu tư phát triển năm 2022 là 5.071 tỷ đồng, đạt 128,7% dự toán năm, tăng 7,2% so cùng kỳ.

- Chi thường xuyên là 9.205 tỷ đồng, đạt 114,38% so với dự toán, tăng 4,8% so với cùng kỳ, cụ thể như sau:

+ Chi sự nghiệp y tế 908 tỷ đồng: để chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh, ngân sách địa phương đã chủ động bố trí dự toán ngay từ đầu năm. Bên cạnh đó, nhu cầu kinh phí phòng, chống dịch bệnh theo mùa như sốt xuất huyết, sởi - rubella...phát sinh nhu cầu chi khá lớn. Ngân sách địa phương cũng bố trí kinh phí chi thực hiện các Chương trình y tế - dân số theo yêu cầu của Bộ Y tế.

+ Chi đảm bảo xã hội 996 tỷ đồng: bên cạnh việc đảm bảo kinh phí thực hiện chính sách, chế độ cho đối tượng người có công, người thuộc đối tượng bảo trợ xã hội; địa phương tiếp tục bố trí kinh phí hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ; hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

+ Các khoản chi sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo, Văn hoá thông tin, Thể dục thể thao, Phát thanh truyền hình, Quản lý hành chính là 5.262 tỷ đồng: chi theo dự toán và đảm bảo được yêu cầu chi hoạt động của các ngành, trong đó, đảm bảo kinh phí chăm lo Tết Nguyên đán cho người có công, gia đình chính sách tiêu biểu, các đơn vị, người cao tuổi, người nghèo và các đối tượng tại các đơn vị xã hội trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022; mua bảo hiểm cho các đối tượng chính sách và đối tượng xã hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ...

+ Chi sự nghiệp kinh tế: Những tháng đầu năm, các ngành, các cấp đã chủ động bố trí kinh phí sự nghiệp kinh tế để chi các công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả sạt lở. Ngoài ra, các đơn vị, địa phương tiếp tục duy tu cầu đường, thực hiện chi cho công tác khuyến nông, khuyến ngư trên địa bàn tỉnh...

Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện vai trò hỗ trợ vốn cho các thành phần kinh tế phục hồi và phát triển. Tập trung triển khai Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất (HTLS) từ ngân sách nhà nước đối với các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện hỗ HTLS theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP, được xem là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt trong năm 2022.

Trong năm, hoạt động Ngân hàng trên địa bàn tỉnh tiếp tục hoạt động ổn định, các tổ chức tín dụng chấp hành nghiêm các quy định về lãi suất nhất là quy định về trần lãi suất huy động (LSHĐ) và trần lãi suất cho vay (LSCV).

Lãi suất cho vay Việt Nam đồng (VND):

phổ biến ở mức trên 5,5% - 9%/năm đối với ngắn hạn (chiếm 68,50% tổng dư nợ ngắn hạn VND); trên 11%-13%/năm đối với trung dài hạn (chiếm 54,01% tổng dư nợ trung dài hạn VND); Các NHTM chấp hành nghiêm mức trần LSCV ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN là 5,5%/năm.

Mặt bằng LSHĐ và LSCV trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng so với đầu năm trong bối cảnh nhu cầu vốn phục hồi sản xuất tăng cao. Cụ thể như: lãi suất cho vay từ 9% trở lên tăng ở cả kỳ hạn ngắn, trung dài hạn (ngắn hạn tăng 10,73%, trung dài hạn tăng 26,95%).

đến cuối tháng 10/2022, tổng vốn huy động 87.644 tỷ đồng, đạt 102,1% kế hoạch; tăng 8.154 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cuối năm trước, tốc độ tăng bình quân là 1,09%/ tháng. Vốn huy động tăng trưởng cao hơn mức tăng 8,57% so cùng kỳ năm trước; cao hơn 5,60% so với mức tăng của cả nước. Có 26/30 chi nhánh ngân hàng thương mại tăng trưởng VHĐ so với cuối năm 2021. Trong đó, vốn huy động trên 12 tháng tăng 22,21%, chiếm 49,84% tổng nguồn vốn huy động. Huy động vốn chủ yếu ở khu vực dân cư, chiếm tỷ trọng 84,74% tổng nguồn VHĐ. Nguồn vốn huy động tăng khá, tạo đà tăng ngay từ các tháng đầu năm. Với mặt bằng lãi suất huy động tăng tại hầu hết các hệ thống ngân hàng thương mại như hiện nay thì dự kiến đến cuối năm 2022, gửi tiền ngân hàng sẽ là kênh được đông đảo người dân lựa chọn. Ước đến cuối năm 2022, vốn huy động 89.028 tỷ đồng, đạt 103,7% so kế hoạch, tăng 12% so cuối năm 2021.

Đến cuối tháng 10/2022, tổng dư nợ trên địa bàn tỉnh đạt 83.712 tỷ, đạt 102,14% kế hoạch; tăng 11.820 tỷ, tăng 16,44% so với cuối năm 2021, bình quân tăng 1,55%/tháng. Từ đầu năm đến nay, hệ thống tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng nhu cầu vay vốn cho 925.245 lượt khách hàng với doanh số cho vay lũy kế từ đầu năm đạt 126.833 tỷ đồng. Tăng trưởng dư nợ cao hơn 9,21% so với cùng kỳ năm trước; cao hơn 4,99% so với mức tăng của cả nước. Ước đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng 84.832 tỷ đồng, đạt 103,5 kế hoạch và tăng 18% so cuối năm 2021.

đến cuối tháng 10/2022, nợ xấu là 651 tỷ đồng, tỷ lệ là 0,78% trên tổng dư nợ, giảm 0,27% so cuối năm 2021. Ước đến cuối tháng 12/2022, nợ xấu là 645 tỷ đồng, giảm 0,29% so với cuối năm 2021. Công tác xử lý nợ xấu luôn được các ngân hàng quan tâm, nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ như: thông qua công văn, thông báo, điện thoại, thư điện tử, tin nhắn, đàm phán trao đổi trực tiếp để thỏa thuận với khách hàng về kế hoạch, thời gian và phương thức trả nợ; Biện pháp tài chính như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi; Biện pháp xử lý tài sản bảo đảm thông qua các hình thức như khách hàng bán tài sản cho người mua hoặc ngân hàng trực tiếp bán tài sản cho người mua hoặc bán thông qua tổ chức đấu giá; Biện pháp khởi kiện và đề nghị cơ quan thi hành thu hồi nợ.

hoạt động ổn định, các chỉ tiêu điều đạt mức tăng trưởng. Tổng nguồn vốn huy động đến cuối tháng 11/2022 là 1.224 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cuối năm 2021. Tổng dư nợ cho vay 1.028 tỷ đồng, tăng 17,2% so với đầu năm, tương ứng tăng 151 tỷ. Nợ xấu là 3,3 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,32%, giảm 0,1% so đầu năm.

- Cho vay phục vụ nông nghiệp, nông thôn (theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP):

Sản xuất nông nghiệp nông thôn của tỉnh trong năm diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho vốn tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này. Kết quả, đến cuối tháng 10/2022, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (NNNT) đạt 44.053 tỷ, tăng 6.665 tỷ, tăng 17,83% so với cuối năm 2021, chiếm 52,62% tổng dư nợ cho vay toàn tỉnh. Thực hiện cho vay chủ yếu là các NHTM nhà nước và vốn nhà nước chi phối (chiếm 80,95% tổng dư nợ NNNT toàn tỉnh). NH nông nghiệp luôn là đơn vị đóng vai trò chủ lực trong đầu tư cho vay lĩnh vực này và xem đây là đối tượng cho vay chủ lực, với 87,95% dư nợ tập trung vào lĩnh vực này, góp phần quan trọng vào phát triển KT-XH của tỉnh. Các ngân hàng thương mại cổ phần có tham gia nhưng còn hạn chế thị phần. Các quỹ tín dụng nhân dân chiếm 0,08% thị phần dư nợ, lĩnh vực này nhưng có ý nghĩa về mặt cải thiện đời sống người dân, xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu nạn cho vay nặng lãi tại vùng nông thôn.

- Cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP về chính sách phát triển thủy sản:

Các NHTM đã cho vay đóng mới, nâng cấp 43 tàu (32 tàu đóng mới, 11 tàu nâng cấp) với tổng số tiền là 260 tỷ đồng. Đến cuối tháng 9/2022, dư nợ cho vay 85,3 tỷ đồng, nợ xấu là 15,4 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 18,05%. Hiện các ngân hàng đã ngưng giải ngân và đang theo dõi thu hồi nợ, nguồn thu để trả nợ chủ yếu từ các hoạt động khai thác, đánh bắt nhưng đang gặp nhiều khó khăn do ngư trường cạn kiệt và các rủi ro khác như chìm tàu, cháy tàu, va chạm giữa các tàu gây tai nạn trên biển.

- Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19:

Đến hết ngày 30/9/2022, đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ cho 4.862 khách hàng, với giá trị nợ gốc và lãi đạt 2.042 tỷ đồng. Cho vay mới để hỗ trợ khách hàng khôi phục lại sản xuất kinh doanh với danh sách cho vay lũy kế khi phát sinh dịch đến nay là 269,23 ngàn tỷ đồng.

Bên cạnh giảm lãi suất, các chi nhánh cũng tiếp tục triển khai giảm các loại phí thanh toán, chuyển tiền...hỗ trợ khách hàng, mức giảm tối đa lên đến 100%. Chương trình cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ (sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021) và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021): Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh đã cho vay 41 đơn vị sử dụng lao động để trả lương cho 35.984 lượt người lao động với số tiền vay hơn 128 tỷ đồng, thời gian cho vay dưới 12 tháng, lãi suất 0%/năm, đã tiến hành thu nợ, còn 36 khách hàng còn dư nợ đến hết ngày 31/10/2022 đạt 81,266 tỷ đồng.

Trong bối cảnh cùng với cả nước khắc phục sau đại dịch Covid-19 và chịu tác động lạm phát toàn cầu đang tăng cao, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân... Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2022 giảm 0,08% so tháng 11/2022, (

thành thị giảm 0,04%, nông thôn giảm 0,09%);

tăng 2,84% so tháng 12 năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý IV/2022 giảm 0,02% so với quý trước, do nguồn cung gas của thế giới được cung ứng đầy đủ dồi dào, kéo giá gas trong nước giảm; giá xăng dầu của thế giới giảm và tại địa phương nguồn cung ứng xăng dầu được giữ ổn định, nên không có tình trạng găm hàng, gây thiếu hàng làm tăng giá đột biến; tăng 2,95% so với cùng kỳ. Bình quân năm 2022, CPI tăng 3,25% so với cùng kỳ năm 2021; như vậy, địa phương cơ bản kiểm soát lạm phát dưới 4%, bình quân 1 tháng CPI tăng 0,24%.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 09 nhóm tăng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,25% (trong đó: lương thực tăng 0,66%, thực phẩm tăng 0,21% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,11%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,33%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,31%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%; giáo dục tăng 0,01%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,26% và nhóm hàng hoá dịch vụ khác tăng 0,46%. Có 02 nhóm giảm: giao thông giảm 3,42%; bưu chính viễn thông giảm 0,09%.

Một số mặt hàng có chỉ số giá tháng 12/2022 giảm so tháng 11/2022:

- Chỉ số giá nhóm giao thông giảm 3,42%, làm giảm CPI chung của tháng 12 ở mức 0,35 điểm phần trăm, chủ yếu do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giảm giá xăng dầu trong nước vào các ngày: ngày 01/12/2022, 12/12/2022 và 21/12/2022 làm cho giá xăng A95-III giảm 7,52%, xăng sinh học E5 giảm 7,19%, dầu diezen 0,05S giảm 10,64% so với tháng trước.

- Giá bưu chính viễn thông giảm 0,09%, do các cửa hàng kinh doanh điện thoại di động đua nhau giảm giá dịp cuối năm.

Bên cạnh đó, một số mặt hàng có chỉ số giá tăng hơn so tháng trước như:

- Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tăng cường thu mua để cung ứng đủ số lượng giao cho các hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký từ đầu năm, dẫn đến giá gạo bán lẻ tại các chợ tăng làm cho giá gạo tăng 0,66%; Giá nguyên liệu đầu vào tăng tác động đến giá các mặt hàng lương thực chế biến khác như: giá bún, bánh phở, bánh đa tăng 0,26%; bột ngô tăng 0,21%; mỳ sợi, mỳ, phở, cháo ăn liền tăng 0,06% và ngũ cốc ăn liền tăng 0,31%...

- Nhóm thực phẩm tăng 0,21%, tăng chủ yếu ở một số mặt hàng như: hải sản tươi sống tăng 1,09%; thuỷ hải sản chế biến tăng 0,26%, trong đó: tôm khô, cá khô tăng 0,23% và thuỷ hải sản chế biến khác tăng 0,39%, do nhu cầu chế biến tôm khô, mực khô phục vụ thị trường Tết; các loại đậu và hạt tăng 1,47%, hiện nay cuối vụ thu hoạch, sản lượng thu hoạch giảm giá bán lẻ tăng; rau (tươi, khô và chế biến) tăng 0,83%, do vào mùa lạnh một số loại rau bị ảnh hưởng giảm năng suất thu hoạch, dẫn đến sản lượng cung ứng ra thị trường ít.

- Giá dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 0,11% so với tháng trước, do giá nguyên liệu chế biến tăng cao. Trong đó, chỉ số giá uống ngoài gia đình tăng 1,01% và đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,04% so với tháng trước; Riêng giá bát phở tái bình dân và cơm bình dân tháng này ổn định.

- Thời điểm về cuối năm, nhu cầu mua sắm, may mặc quần áo tăng lên, dẫn đến chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,31%, do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí vận chuyển và nhu cầu mua sắm quần áo mùa lạnh tăng. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,2%; quần áo may sẵn tăng 0,3%; mũ nón tăng 0,11% và giày dép tăng 0,37%.

Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 12/2022 tăng 0,91% so tháng trước; giá bình quân tháng 12/2022 là 5.408 ngàn đồng/chỉ, tăng 151 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.

Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 12/2022 giảm 2,72% so tháng trước, giá bình quân 24.193 đồng/USD, tăng 1.218 đồng/USD so cùng kỳ.

Ước chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2023 tăng từ 0,8% đến 1,2% so tháng 12/2022, do nhu cầu cuối năm tăng lên; giá gạo tiếp tục tăng nhẹ; giá rau xanh và giá thực phẩm tươi sống như thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm... giá sẽ tăng mạnh, đặc biệt là các mặt hàng ăn uống ngoài gia đình do sức mua của người dân tăng lên trong dịp nghỉ Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán sắp tới.

Vốn đầu tư toàn xã hội quý IV/2022, ước thực hiện được 14.441 tỷ đồng, tăng 5,9% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 8.885 tỷ đồng, chiếm 61,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 850 tỷ đồng, chiếm 5,9%; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 2.676 tỷ đồng, chiếm 18,5%.

Năm 2022, vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 41.844 tỷ đồng, đạt 100,2% kế hoạch, tăng 10,1% so cùng kỳ; trong đó: vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 27.409 tỷ đồng, tăng 12,5%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.042 tỷ đồng, tăng 2,6%, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 6.800 tỷ đồng, tăng 37,2% so cùng kỳ.

Hình 1.Vốn đầu tư trên toàn xã hội

Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý quý IV/2022 là 2.119 tỷ đồng, tăng 35,2% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.711 tỷ đồng, tăng 32,4%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 236 tỷ đồng, tăng 93,2%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 173 tỷ đồng, tăng 12,6% so cùng kỳ.

Năm 2022, vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là 5.477 tỷ đồng, đạt 102,2% kế hoạch, tăng 43,3% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 4.323 tỷ đồng, tăng 43,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 751 tỷ đồng, tăng 45,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 402 tỷ đồng, tăng 36% so cùng kỳ.

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Tiền Giang năm 2021 đạt được 64,41 tăng 12 bậc và tăng 1,63 điểm so với năm 2020, điểm xếp hạng 33 của cả nước, thứ hạng của tỉnh Tiền Giang chưa có nhiều thay đổi thứ bậc một cách đáng kể. Điểm số này chưa đạt được sự kỳ vọng của lãnh đạo Tỉnh và cộng đồng doanh nghiệp đã nỗ lực trong thời gian qua.

Thu hút đầu tư 11 tháng năm 2022 thu hút được 16 dự án, tăng 10 dự án so cùng kỳ; tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.448 tỷ đồng, tăng gấp 4,7 lần so cùng kỳ. Dự kiến cả năm tỉnh thu hút được 17 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký 10.214 tỷ đồng, tăng 92% so cùng kỳ.

- Tình hình phát triển các khu, cụm công nghiệp:

Tiền Giang được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích đất quy hoạch là 2.083,5 ha, trong đó có 3 khu: KCN Mỹ Tho, Tân Hương, Long Giang, đang hoạt động với diện tích 816 ha, chiếm 39,2% diện tích quy hoạch KCN. Đến nay các KCN thu hút được 110 dự án (trong đó có 82 dự án FDI) với tổng vốn đầu tư trên 2,3 tỷ USD và 4.646 tỷ đồng; diện tích thuê 525,5/770,1 ha, chiếm 68,4%.

Về cụm công nghiệp, đến nay, có 27 cụm công nghiệp (CCN) được tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, trong đó có 5 cụm công nghiệp đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Tính đến cuối năm 2022 đã thu hút được 79 dự án thứ cấp (trong đó có 6 dự án FDI), với tổng vốn đầu tư đăng ký 150 triệu USD và 2.306 tỷ đồng, với diện tích thuê đất là 88,73 ha/120,6 ha đạt tỷ lệ 73,6% diện tích đất công nghiệp cho thuê.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2022 (giá so sánh 2010), thực hiện 12.270 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ; trong đó: doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 6.533 tỷ đồng, tăng 11,5%; loại hình khác thực hiện 5.723 tỷ đồng, tăng 8,1% so cùng kỳ. Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2022 thực hiện 20.211 tỷ đồng, tăng 19,9% so cùng kỳ; trong đó: doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện 10.762 tỷ đồng, tăng 21,6%, loại hình khác thực hiện 9.427 tỷ đồng, tăng 17,9% so cùng kỳ.

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp:

Theo báo cáo Sở kế hoạch - Đầu tư, đến hết tháng 11 tỉnh có 869 doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 6.424 tỷ đồng đạt 129,7% kế hoạch; tăng 72,4% về số lượng doanh nghiệp và tăng 48,4% về vốn đăng ký so cùng kỳ 2021 (trong đó, có 96 doanh nghiệp phát triển từ hộ kinh doanh, tăng 140% so cùng kỳ 2021). Ước thực hiện năm 2022, số doanh nghiệp thành lập mới là 900 doanh nghiệp, tăng 56% so cùng kỳ; tổng vốn đăng ký là 5.900 tỷ đồng; có 110 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể; đăng ký thành lập mới 890 đơn vị trực thuộc (200 chi nhánh, 665 địa điểm kinh doanh, 25 văn phòng đại diện). Tính đến cuối năm 2022, tổng số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn là 6.100 doanh nghiệp.

Năm 2022, tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình phục hồi sản xuất, kinh doanh; tổ chức Hội nghị Chủ tịch UBND tỉnh gặp mặt các doanh nghiệp tại các Khu công nghiệp, doanh nghiệp; xây dựng các Kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp; tổ chức Hội nghị phát triển doanh nghiệp tại một số địa phương để phổ biến các chính sách, vận động hỗ trợ hộ kinh doanh có quy mô lớn để phát triển thành doanh nghiệp; triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động như: miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất... theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ; hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ; triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất theo NĐ 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 26/7/2021 của Tỉnh ủy về lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 và Kế hoạch hành động số 262/KH-UBND ngày 27/8/2021 thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TT, tập trung cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách hành chính, thúc đẩy khởi nghiệp, chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp,.... Tình hình phát triển doanh nghiệp khởi sắc.

Tình hình cắt giảm lao động, việc làm trong doanh nghiệp

Trên địa bàn tỉnh có 21 doanh nghiệp bị ảnh hưởng từ lạm phát trên thế giới, các doanh nghiệp không có đơn hàng với tổng số lao động đang làm việc là 17.719 người, trong đó có 8.639 lao động bị ảnh hưởng phải thực hiện giảm giờ làm, tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương,... và có phương án dự kiến cắt giảm lao động. Bao gồm 14 doanh nghiệp tư nhân (trong đó có 01 HTX); 7 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Chia theo mức độ ảnh hưởng cắt giảm việc làm: g

iảm giờ làm 13 lượt doanh nghiệp với 12.233 lao động; tạm hoãn hợp đồng lao động 2 tháng có 01 doanh nghiệp với 1.100 lao động. chấm dứt hợp đồng lao động có 7 doanh nghiệp với 679 lao động; nghỉ việc không hưởng lương có 3 doanh nghiệp (tạm dừng hoạt động từ tháng 9, tháng 10/2022) với 170 lao động. Sau 2 tháng tạm dừng hoạt động, hiện có 01 doanh nghiệp với 100 lao động bắt đầu hoạt động trở lại vào đầu tháng 12/2022.

6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:

năm 2022, gieo trồng 137.219 ha, đạt 109,9% kế hoạch, tăng 2,3% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 848.608 tấn, đạt 110,7% kế hoạch, tăng 0,5% so cùng kỳ. Cụ thể:

Gieo sạ 134.846 ha, đạt 110,3% kế hoạch, tăng 2,3% so cùng kỳ, thu hoạch 134.846 ha; sản lượng thu hoạch 839.961 tấn đạt 111% kế hoạch, tăng 0,5% so cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 62,3 tạ/ha giảm 1,8% so cùng kỳ.

Vụ Đông Xuân 2021 - 2022: Chính thức gieo trồng 49.192 ha, giảm 4,8% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm hầu hết ở các huyện, trong đó: huyện Cái Bè giảm 950 ha, Thị xã Gò Công giảm 380 ha, huyện Gò Công Đông giảm 376 ha, huyện Cai Lậy giảm 293 ha, Gò Công Tây giảm 175 ha,.... Nguyên nhân do chuyển từ diện tích trồng lúa sang làm đường và trồng cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao như: sầu riêng, mít, thanh long, bưởi. Năng suất thu hoạch đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,1% so cùng kỳ (vùng lúa phía đông năng suất bình quân gần 66 tạ/ha; phía tây là 75,3 tạ/ha). Sản lượng thu hoạch đạt 350.080 tấn, giảm 4,7% so cùng kỳ do diện tích gieo trồng giảm. Vụ Đông Xuân 2021- 2022 được triển khai thực hiện sớm hơn so cùng kỳ để né hạn mặn trong mùa khô và thời tiết thuận lợi hơn giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, sâu bệnh ít, thời gian lúa trổ gặp thời tiết tương đối thuận lợi giúp thụ phấn và đậu hạt tốt, mưa trái mùa giúp đủ nước cung cấp cho cây lúa trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển nên cho năng suất cao.

Vụ Hè Thu (gồm Xuân Hè và Hè Thu): Diện tích gieo trồng chính thức 72.258 ha giảm 3,3% so cùng kỳ, (vụ Xuân hè 23.931 ha, Hè thu 48.327 ha). Diện tích giảm ở các huyện: TX. Gò Công 221 ha, TX Cai Lậy 76 ha, Tân Phước 48 ha, Cái Bè 1.058 ha, Cai Lậy 49 ha, Châu Thành 456 ha, Chợ Gạo 45 ha, Gò Công Tây 415 ha và Gò Công Đông 102 ha, do chuyển sang đất phi nông nghiệp và một số vùng sản xuất lúa không hiệu quả người dân chuyển sang trồng cây rau màu, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Diện tích thu hoạch 72.258 ha, giảm 3,3% so cùng kỳ; năng suất bình quân 57,7 tạ/ha, giảm 1,8% so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch đạt 417.284 tấn, giảm 5% so cùng kỳ do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân đều giảm, những cơn mưa lớn vào thời điểm lúa đang trổ bông và thu hoạch làm ảnh hưởng đến năng suất.

Vụ Thu đông: Diện tích gieo trồng 13.396 ha; tăng 1,4 lần so cùng kỳ, diện tích gieo trồng ở các huyện như sau: TX Gò Công 3.483 ha, chiếm 26%; Tân Phước 1.166 ha, chiếm 8,7%; Châu Thành 776 ha, chiếm 5,9%; Chợ Gạo 167 ha, chiếm 1,2%; Gò Công Tây 7.404 ha, chiếm 55,2%; Gò Công Đông 325 ha, chiếm 2,4% và Tân Phú Đông 75 ha, chiếm 0,6%. Diện tích vụ lúa Thu Đông năm nay tăng cao do các huyện thị phía Đông gieo trồng linh hoạt theo điều kiện thực tế của địa phương. Năng suất thu hoạch đạt 54,2 tạ/ha, tăng 0,2% so cùng kỳ, do nông dân mạnh dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào canh tác, phòng trừ hiệu quả sâu bệnh, dịch hại trên lúa. Sản lượng thu hoạch đạt 72.597 tấn, tăng khoảng 1,5 lần so cùng kỳ do diện tích gieo trồng và năng suất bình quân đều tăng.

Hình 2. Lúa tính đến ngày 15/12/2022

Diện tích trồng 2.352 ha, tăng 5,1% so cùng kỳ do thời tiết thuận lợi nên người dân tranh thủ trồng. Diện tích ngô trồng tập trung hầu hết ở các huyện; trong đó huyện Chợ Gạo 1.152 ha, chiếm 51,7% diện tích ngô toàn tỉnh, đây cũng là địa phương có tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ trồng lúa sang các cây trồng khác lớn so với các địa phương khác trong tỉnh. Năng suất bình quân 36,5 tạ/ha, giảm 0,2% so cùng kỳ; Sản lượng đạt 8.594 tấn, tăng 5% so cùng kỳ.

gieo trồng 56.704 ha, tăng 1,8% so cùng kỳ; sản lượng 1.225.355 tấn, tăng 4,8% so cùng kỳ; năng suất đạt 216,1 tạ/ha tăng 2,9% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại 56.427 ha tăng 1,8% so với cùng kỳ, sản lượng 1.224.552 tấn, tăng 4,8% so cùng kỳ; năng suất đạt 217 tạ/ha tăng 2,9% so cùng kỳ. Xu hướng hiện nay bà con nông dân đang dần mở rộng mô hình trồng rau trong nhà màng, nhà lưới nên năng suất cao, chi phí giảm dần, giá bán ổn định, giúp nông dân có thu nhập cao, đời sống ổn định là hướng đi đang được khuyến khích, tỉnh cũng xác định cây màu là thế mạnh trong nền sản xuất nông nghiệp tại địa phương.

Trong thời gian qua, cây lâu năm trên địa bàn không ngừng phát triển qua các năm. Tuy nhiên do ảnh hưởng tình hình nắng nóng và hạn mặn những năm trước đó, nhà vườn đã cải tạo, đốn bỏ những cây trồng kém hiệu quả để chuyển sang trồng những cây có hiệu quả kinh tế hơn như sầu riêng, mít, bưởi, dừa,... đến thời điểm hiện nay đã khôi phục hoàn toàn. Toàn tỉnh hiện có 104.939 ha cây lâu năm, đạt 98,8% kế hoạch, tăng 1,1% so cùng kỳ, diện tích thu hoạch 83.463 ha, tăng 3% so cùng kỳ; trong đó: cây ăn quả có 82.353 ha, tương đương so cùng kỳ, diện tích thu hoạch đạt 64.789 ha, tăng 2,7% so cùng kỳ. Sản lượng cây lâu năm đạt 2.058.738 tấn, đạt 111% kế hoạch, tăng 3,2% so cùng kỳ; trong đó: cây ăn quả đạt 1.707.732 tấn, tăng 2,5% so cùng kỳ. Diện tích cây lâu năm tăng do giá các loại trái cây năm nay cao hơn so với năm trước nên nông dân trên địa bàn tỉnh đã chủ động đầu tư và mở rộng diện tích sầu riêng, mít…. Sản lượng tăng do diện tích thu hoạch tăng, chủ yếu là cây ăn quả. Mặc dù bị tốc độ đô thị hóa, nhưng tỉnh hiện vẫn duy trì được diện tích đất sản xuất trồng cây lâu năm ổn định, góp phần đảm bảo cung cấp sản lượng cây ăn trái ở trong và ngoài tỉnh.

Dự báo thời điểm trước, trong và sau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, cùng với điều kiện thời tiết thay đổi bất thường, các hoạt động chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ, kinh doanh, tiêu thụ động vật, sản phẩm động vật đều tăng cao có khả năng tạo ra nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên vật nuôi. Do đó UBND tỉnh đã ban hành công văn số 6356/UBND-KT về việc tập trung chỉ đạo và thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh động vật trước, trong và sau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 trên địa bàn tỉnh nhằm chủ động ứng phó khi dịch bệnh trên vật nuôi có xảy ra. Trong những tháng cuối năm 2022, ngành chức năng đã chủ động phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi bằng phương pháp triển khai đợt tổng tiêu độc khử trùng từ 18/11 đến ngày 10/12/2022, góp phần làm cho người chăn nuôi yên tâm trong việc ổn định phát triển tổng đàn gia súc, gia cầm phục vụ Tết Nguyên đán. Ước thời điểm 01/12/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh là: đàn bò 123,2 ngàn con, tăng 0,2% so cùng kỳ; đàn lợn 297,5 ngàn con, tăng 6,3% so cùng kỳ; đàn gia cầm 17,2 triệu con, giảm 1% so cùng kỳ. Ước tính tổng đàn gia súc tăng do người chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao nhằm kiểm soát tốt dịch bệnh, gia tăng hiệu quả kinh tế và tạo ra sản phẩm chăn nuôi an toàn thực phẩm, hướng đến mục tiêu xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Đàn gia cầm giảm do giá thức chăn nuôi tăng cao làm ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của người chăn nuôi, nhiều hộ chọn phương án an toàn, tránh bị lỗ vốn bằng biện pháp giảm đàn, ngừng chăn nuôi và chuyển sang vật nuôi khác có lợi nhuận hơn.

* Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi trong năm 2022 (theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang):

Trên gia cầm: Từ đầu năm đến nay ghi nhận 03 trường hợp gà bị bệnh cúm gia cầm tại huyện Cái Bè và Chợ Gạo với số gà bệnh là 4.481 trên tổng đàn 7.020 con, đã tiêu huỷ 7.020 con.

- Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Từ đầu năm đến nay (từ ngày 12/12/2021), trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 131 hộ có lợn mắc bệnh Dịch tả lợn Châu Phi với số lợn bệnh là 2.027 trên tổng đàn 5.415 con tại 10 huyện (Cái Bè; Chợ Gạo; Cai Lậy; Châu Thành; Mỹ Tho; Tân Phước; TX Gò Công; Gò Công Đông; Gò Công Tây; Tân Phú Đông). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 4.295 con, trọng lượng 183.056 kg. Ngoài ra, địa phương còn tiêu hủy 354 con trước ngày 14/12/2021 với trọng lượng 18.015 kg.

- Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Từ đầu năm đến nay (từ ngày 14/12/2021) ghi nhận bò có dấu hiệu điển hình của bệnh viêm da nổi cục tại 05 huyện với 30 con bò bệnh/tổng đàn 147 con. Chính quyền địa phương tiêu hủy 03 con với trọng lượng 304 kg.

Hình 3. Tình hình chăn nuôi tại thời điểm 01/12/2022

Tổng diện tích rừng hiện có 1.746,9 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng). Trong đó rừng phòng hộ 1.341,2 ha (huyện Gò Công Đông: 439 ha; huyện Tân Phú Đông: 846,8 ha và huyện Tân Phước: 55,4 ha); rừng sản xuất: 405,7 ha.

Trong tháng 12/2022 thực hiện trồng mới được 139,2 ngàn cây phân tán, nâng tổng số cây trồng năm 2022 được 659,8 ngàn cây phân tán các loại, giảm 22% so với cùng kỳ. Những cây trồng mới chủ yếu là cây bạch đàn, tràm lanh, tràm bông vàng trên các tuyến đường đi nông thôn mới, tuyến kênh, tuyến đê bao ở huyện Cái Bè, Tân Phước, Chợ Gạo, Thị xã Gò Công, Gò Công Tây, Gò Công Đông, Tân Phú Đông.

Sản lượng khai thác gỗ đạt 34.495 m3 giảm 8,7% so với cùng kỳ. Các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ các loại cây như: bạch đàn, bạch đàn cao sản, dầu gió, tràm lanh. Nguyên nhân giảm do diện tích rừng và số lượng trồng cây qua các năm chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả khác như cây khóm (dứa), mít, sầu riêng, thanh long, dừa (dừa xiêm xanh, lùn giống mới).

Năm 2022, toàn tỉnh khai thác được 122.740 Ste củi các loại giảm 5,5% so cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác giảm do hộ dân ở các huyện Cái Bè, Tân Phước, Gò Công Đông chuyển đổi cây trồng sang vườn cây ăn trái.

Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng 12 đạt 1.663 ha. Tổng số diện tích nuôi trồng thủy sản các loại trong năm 2022 đạt 14.841 ha, đạt 98,2% kế hoạch, tăng 8,2% so cùng kỳ; bao gồm: diện tích nuôi cá đạt 3.586 ha tăng 0,4% so cùng kỳ, diện tích nuôi tôm đạt 8.168 ha tăng 4% so cùng kỳ; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.087 ha tăng 34,8% so với cùng kỳ.

Sản lượng thủy sản tháng 12 đạt 89.684 tấn, Tổng sản lượng thủy sản trong năm 2022 đạt 360.629 tấn, giảm 0,5% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng từ nuôi 216.481 tấn, tăng 3% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 144.148 tấn, giảm 5,4%. Sản lượng nuôi tăng như: tôm (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), thủy sản khác (nghêu, sò, ếch) do người dân áp dụng mô hình công nghệ hiệu quả, chọn con giống đạt chất lượng, thời điểm nuôi thích hợp. Ngoài ra, cá tra vẫn là mặt hàng lợi thế thị trường trong và ngoài nước, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra thương phẩm đi nước ngoài góp phần làm tăng sản lượng thủy sản nuôi trồng so với cùng kỳ; Sản lượng khai thác giảm chủ yếu do ngành khai thác thủy sản biển còn gặp nhiều khó khăn thời tiết trên biển những tháng đầu năm diễn biến phức tạp, giá nguyên nhiên liệu tăng cao dẫn đến hiệu quả khai thác thấp.

Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn, huy động tốt nguồn lực của địa phương để tổ chức triển khai; chú trọng vận động và hỗ trợ người dân tham gia xây dựng nông thôn mới. Theo dõi, hướng dẫn và hỗ trợ các địa phương thực hiện củng cố, nâng chất và duy trì các tiêu chí tại tất cả các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, nhất là các tiêu chí về tổ chức sản xuất, y tế, môi trường và an toàn thực phẩm. Theo lộ trình, đến cuối năm 2022, tỉnh có thêm 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh là 136/142 xã, chiếm 95,8%; có 14 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt 37/142 xã; 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và huyện Cai Lậy đang đề xuất công nhận huyện nông thôn mới; hiện có 3/8 huyện được công nhận huyện nông thôn mới và 03 đô thị hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Hoạt động sản xuất công nghiệp nhìn chung ổn định, các doanh nghiệp đang dần tái hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới, các ngành công nghiệp gia công may mặc, chế biến và chế tạo tăng trưởng nhanh trở lại. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuận lợi hơn, các chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, giá nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu tăng đã tạo áp lực đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2022 giảm 1,6% so tháng 11/2022 và tăng 5,02% so cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo của tỉnh đều tăng so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống tăng 6,97%; sản xuất trang phục tăng 17,14%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 10,51%; sản xuất kim loại tăng 4,54%, công nghiệp chế biến chế tạo khác tăng 31,29%; sản xuất thiết bị điện tăng 1,1 lần; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 1,2 lần...

Hình 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2022

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý IV/2022 tăng 5,37% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,44% (một số ngành công nghiệp chế biến chế tạo có chỉ số tăng mạnh như: sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 1,3 lần; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 1 lần; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 98,38%; Sản xuất kim loại tăng 60,34%;...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 10,69%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 24,9%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2022 tăng 13,71% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,86% (một số ngành có chỉ số tăng mạnh như: công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 1,2 lần; Sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 83,29%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 82,02%; Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 72,23%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 68,48%; sản xuất kim loại, tăng 32,87%...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 12,25%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,04%.

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 12/2022 so với tháng trước giảm 0,08%,

(trong đó: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,33%; doanh nghiệp nhà nước bằng 100%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,46%)

(trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 3,45%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 2,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,83%).

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp năm 2022 tăng 25,39% so cùng kỳ, trong đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 6,88%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,92% và doanh nghiệp nhà nước giảm 1,45%. Chia theo ngành công nghiệp: ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 26,11%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,69%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 11,96%.

Sản phẩm sản xuất công nghiệp năm 2022: có 26/43 sản phẩm tăng so cùng kỳ: Thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 178,6%; Đồ chơi hình con vật hoặc sinh vật không phải hình người tăng 124,4%; Áo khoác dài, áo khoác không tay, áo khoác có mũ, áo gió cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 88,4%; Tàu thuyền lớn chuyên chở người và hàng hóa có động cơ đẩy tăng 54,1%; Giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic tăng 51,5%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 32,6%; Các sản phẩm bằng vật liệu tết bện khác tăng 32,3%; Bia đóng lon tăng 24,2%; Bia đóng chai tăng 22,5%; Phân vi sinh tăng 19,4%; Túi xách tăng 13,6%; Nước uống được tăng 13,2%; Điện thương phẩm tăng 12,3%; Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục tăng 1,4%;…có 17 sản phẩm giảm so cùng kỳ: Phanh và trợ lực phanh giảm 91,2%; Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền giảm 90,2%; Dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 38,2%; Máy gặt đập liên hợp giảm 25%; Máy chế biến thịt gia súc hoặc gia cầm giảm 23,5%; Thức ăn cho thủy sản giảm 21,5%; Phi lê đông lạnh giảm 8,5%; Màn bằng vải khác giảm 6,7%; Thức ăn cho gia súc giảm 6,1%; Dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế giảm 3%;…

* Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:

- Chỉ số tiêu thụ tháng 12/2022 so với tháng trước tăng 1,51% và tăng 3,34% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2022 tăng 18,03% so cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất đồ uống tăng 37,51%, trong đó sản xuất bia tăng 37,51%; dệt tăng 32,77%, trong đó sản xuất hàng may sẵn tăng 7,43%; sản xuất da tăng 51,25%, trong đó sản xuất giày dép tăng 79,72%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 5,61%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 26,96%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 66,53%; … Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,88%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 12,17%; sản xuất trang phục giảm 21,34%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 56,71%…

- Chỉ số tồn kho tháng 12/2022 so tháng trước tăng 4,61% và tăng 39,81% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất trang phục tăng 55,78%; sản xuất da tăng 58,93%, trong đó sản xuất giày dép tăng 76,2%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu bằng gấp 2,7 lần; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 96,19%; sản xuất kim loại bằng gấp 9,1 lần; sản xuất thiết bị điện bằng gấp 2,7 lần, trong đó sản xuất mô tơ điện bằng gấp 2,7 lần; chế biến, chế tạo khác tăng 48,15%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 48,15%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 3,66%, trong đó chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản giảm 16,42%; sản xuất đồ uống giảm 99,74%, trong đó sản xuất bia giảm 99,74%; dệt giảm 16,63%, trong đó sản xuất hàng may sẵn giảm 40,77%; sản xuất giấy giảm 27,27%;…

a. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:

Hiện nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát, nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, các hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã trở lại bình thường. Ngành du lịch đã mở cửa trở lại trong điều kiện bình thường mới chủ yếu phục vụ cho khách lữ hành trong ngày. Ngày 11/11/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã ban hành Kế hoạch số 344/KH-UBND về việc dự trữ, cung ứng hàng hóa thiết yếu phục vụ Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 trên địa bàn tỉnh; Thời gian thực hiện bán hàng theo kế hoạch: 02 tháng, kể từ ngày 23/12/2022 (nhằm ngày 01 tháng 12 âm lịch, năm Nhâm Dần 2022) đến hết ngày 19/02/2023 (nhằm ngày 29 tháng Giêng âm lịch, năm Quý Mão 2023); Số lượng hàng hóa thiết yếu dự trữ phục vụ, gồm: Gạo các loại 794,3 tấn, đường cát các loại 639,2 tấn, dầu ăn các loại 1.185.600 lít, bột ngọt, hạt nêm các loại 870,41 tấn, thịt gia súc 198 tấn; thịt gia cầm 136 tấn, ngoài ra còn có các mặt hàng tiêu dùng khác như: Bánh mứt, lạp xưởng, nước giải khát, bột giặt,… với tổng trị giá hàng hóa, hàng hóa thiết yếu các doanh nghiệp thực hiện việc dự trữ, cung ứng hàng hóa với tổng trị giá vốn là 453.719.702.320 đồng, trong đó hàng hóa thiết yếu là 120.217.296.776 đồng.

Hình 5. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước tính quý IV/2022 thực hiện 19.443 tỷ đồng, tăng 8,2% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 16.122 tỷ đồng, bằng 100%; lưu trú, ăn uống 1.353 tỷ đồng, tăng 109,2%; dịch vụ tiêu dùng 1.944 tỷ đồng, tăng 61,9% so cùng kỳ.

Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2022 là 75.603 tỷ đồng, đạt 106,5% kế hoạch, tăng 20,8% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 63.384 tỷ đồng, tăng 17,3%; lưu trú, ăn uống 5.129 tỷ đồng, tăng 44,6%; du lịch lữ hành 55 tỷ đồng, tăng 7,1 lần; dịch vụ tiêu dùng 7.034 tỷ đồng, tăng 40,7% so cùng kỳ.

Giá năng lượng cao và lạm phát kỷ lục là nguyên nhân khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Theo một số doanh nghiệp trong nước, nhiều ngành sản xuất trong nước đang phải nhập khẩu nguyên vật liệu và thanh toán bằng USD, việc đồng USD tăng giá làm cho chi phí sản xuất tăng cao hơn. Đáng lo ngại hơn khi nhiều doanh nghiệp ngành nhựa nhập khẩu nguyên liệu sản xuất nhưng chỉ tiêu thụ ở thị trường nội địa. Việc USD tăng giá làm cho chi phí nhập khẩu vốn đã cao lại tiếp tục tăng, buộc doanh nghiệp phải tăng giá bán ra từ 30% đến 40% mới bù được. Nhưng cái khó của doanh nghiệp là nhu cầu thị trường nội địa đang giảm mạnh, nếu tăng giá bán thì nhu cầu càng giảm, càng khó tiêu thụ sản phẩm hơn. Lạm phát trên thế giới tăng cao, người dân chỉ đang tập trung vào các mặt hàng thiết yếu. Nếu nhu cầu tiêu thụ sụt giảm, kinh doanh khó khăn thì các đối tác sẽ yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu phải giảm giá bán, khó đang chồng khó đối với doanh nghiệp.

Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2022 ước 3.872 triệu USD, đạt 115,6% kế hoạch, tăng 24,6% so cùng kỳ;

trong đó: kinh tế nhà nước 11 triệu USD, giảm 75%; kinh tế ngoài nhà nước 683 triệu USD, tăng 17%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 3.178 triệu USD, tăng 28,1% so cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh trong năm 2022 như sau:

ước xuất 100.515 tấn, tăng 0,7% so cùng kỳ; với giá trị xuất 355 triệu USD, đạt 110,9% kế hoạch, tăng 43,8% so cùng kỳ.

Năm 2022, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đã chớp lấy thời cơ từ những thị trường có nhu cầu lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và những thị trường luôn ưa chuộng sản phẩm thủy sản chế biến tại Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và nhiều thị trường tiềm năng khác. Về phía thị trường, Trung Quốc đang là thị trường tiềm năng cho hàng thủy sản xuất khẩu từ Việt Nam khi có nhiều hứa hẹn phục hồi do gỡ bỏ chính sách tạm ngừng nhập khẩu đối với thực phẩm đông lạnh. Đồng thời nhu cầu cá tra ở đất nước hơn 1,4 tỷ dân này đang rất dồi dào sau 2 năm giảm nhập khẩu. Theo nhận định của các chuyên gia năm 2023, xuất khẩu thủy sản sẽ gặp khó khăn dưới tác động của lạm phát toàn cầu tăng cao, chênh lệch tỷ giá làm hàng xuất khẩu thủy sản từ Việt Nam trở nên đắt đỏ, vốn vay gặp nhiều khó khăn, trong khi lãi suất tăng mạnh… Trong khi đó, lượng đơn đặt hàng có xu hướng sụt giảm, lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng dù đã vào giai đoạn cao điểm tiêu dùng cuối năm. Đặc biệt, với đặc thù phải huy động nhiều vốn vay nên không ít doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn; lãi suất tăng mạnh cũng ảnh hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh và chi phí vốn của các doanh nghiệp. Ngành thủy sản cũng nhận được nhiều sự quan tâm sát sao và chỉ đạo điều hành của Chính phủ với mục tiêu phát triển ngành lâu dài và bền vững. Quyết định số 1408/QĐ-TTg ngày 16/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ngành chế biến thuỷ sản giai đoạn 2021-2030 được kỳ vọng sẽ dẫn dắt hoạt động chế biến và xuất khẩu thủy sản theo hướng nâng cao chất lượng, đi sâu vào chuỗi giá trị sản phẩm cho xuất khẩu thủy sản trong các năm về sau.

ước xuất 126.459 tấn, giảm 47,5% so cùng kỳ; với giá trị 62 triệu USD, đạt 44,3% kế hoạch, giảm 49% so cùng kỳ.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm do giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn gần 55 USD/tấn so với cùng kỳ vì giá trên thị trường thế giới giảm. Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam cao hơn một số nước trên thế giới, nhưng do chi phí logictics của Việt Nam quá cao nên hiệu quả mang lại thấp. Ngoài ra, do giá vật tư đầu vào tăng mạnh nên giá thành sản xuất lúa gạo tăng cũng làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo, cũng như thu nhập của nông dân trồng lúa. Thời gian qua, nông dân bán lúa với giá từ 5.500 - 6.800 đồng/kg, nhưng lợi nhuận của nông dân cũng đạt thấp do chi phí vật tư đầu vào quá cao. Đây là vấn đề cần được ngành chức năng quan tâm tháo gỡ. Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo đang được thúc đẩy tái cơ cấu theo hướng đẩy mạnh giá trị, phát triển bền vững với việc tập trung các giải pháp nâng cao chất lượng và giá trị cho hạt gạo Việt Nam. Cùng với đó, đẩy mạnh thu hút nguồn lực về tài chính, ứng dụng khoa học công nghệ, hướng đến xây dựng ngành lúa gạo Việt Nam phát triển hiện đại, bền vững với các chuỗi sản xuất lúa gạo chất lượng cao, như: SRP, GlobalGAP, VietGAP…

ước xuất 91.761 ngàn sản phẩm, giảm 21,3%; trị giá xuất 569 triệu USD, đạt 94,8% kế hoạch, tăng 19,8% so cùng kỳ.

Theo Hiệp định EVFTA, CPTPP sẽ giúp thị phần dệt may của Việt Nam tại Mỹ, EU được mở rộng. Bên cạnh đó, xu hướng dịch chuyển nguồn cung ứng dệt may thế giới ra khỏi Trung Quốc, còn Việt Nam là một trong những điểm đến của các nhà nhập khẩu, hãng bán lẻ. Dịch Covid-19 cũng làm thay đổi một số xu hướng, đó là thúc đẩy nhu cầu về các sản phẩm thể thao, đồng thời cũng thúc đẩy số hóa trong toàn ngành đang được tạo ra từ các kênh kỹ thuật số. Các doanh nghiệp cũng chú trọng hơn đến quy trình sản xuất “xanh” trong nhà máy và sản xuất sợi bông, sợi tái chế. Điều này sẽ giúp Việt Nam thu hút nhiều hơn các đơn hàng của các đối tác lớn đang quan tâm đến vấn đề bền vững chuỗi cung ứng toàn cầu.

- Kim loại thường và sản phẩm (kể cả đồng):

ước xuất 96.474 tấn, tăng 32,4%; trị giá xuất 971 triệu USD, tăng 36,7% so cùng kỳ.

Dịch bệnh Covid-19 được khống chế tốt từ tháng 4 năm 2022 nên ngành sản xuất kim loại tăng mạnh trong thời gian tới do Công ty TNHH gia công Đồng Hải Lượng là doanh nghiệp xuất nhập khẩu ống đồng và linh kiện lớn nhất tại Trung Quốc, nhà sản xuất ống hợp kim đồng lớn nhất thế giới, doanh nghiệp gia công đồng nổi tiếng quốc tế. Doanh nghiệp hợp tác kinh doanh lâu dài với hơn 800 khách hàng ở 188 quốc gia trên toàn thế giới.

Với các doanh nghiệp, việc đơn hàng nhiều là tín hiệu hết sức tích cực, song diễn biến năm nay lại khác, các chi phí đầu vào như logistics, nguyên phụ liệu, xăng dầu… liên tục tăng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của họ. Dù chi phí tăng cao nhưng giá bán sản phẩm khó tăng hoặc nếu tăng cũng không thể theo được tốc độ tăng của nguyên liệu đầu vào. Hơn nữa, với 50% nguyên phụ liệu dệtt may nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi nước này không áp dụng chiến lược Zero Covid, dẫn đến việc thiếu nguyên liệu ngay trong ngắn hạn và đội thêm chi phí để nhập khẩu. Việt Nam cũng nhập khẩu từ Nga và Ukraine nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp trong nước như lúa mì, ngô làm thức ăn chăn nuôi, phân bón. Việc thiếu hãng tàu và tăng chi phí vận chuyển khiến các doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào của Việt Nam phải dừng giao dịch với Nga và chuyển sang tìm nhà cung ứng từ các nơi khác như Úc, Nam Mỹ, Nam Phi.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2022 ước thực hiện 2.154 triệu USD, đạt 113,4% kế hoạch, tăng 8% so cùng kỳ;

trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 125 triệu USD, tăng 1,8%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.030 triệu USD, tăng 8,4% so cùng kỳ

. Nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như kim loại thường khác 909 triệu USD, tăng 38,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 339 triệu USD, giảm 29,6%; vải các loại 221 triệu USD, tăng 11,1%, chất dẻo nguyên liệu 103 triệu USD, tăng 2,4%... so cùng kỳ.

Vận tải là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch Covid-19, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải hết sức khó khăn. Đến nay, nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân, doanh nghiệp đã có dấu hiệu tăng trở lại, đây là cơ hội để ngành vận tải phục hồi. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khiến giá xăng dầu liên tục tăng cao; vận tải hành khách diễn biến phức tạp khiến cho thị trường vận tải suy giảm, các doanh nghiệp chưa kịp phục hồi đã lại gặp phải những khó khăn mới.

Năm 2022, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện 2.232 tỷ đồng, tăng 23,7% so cùng kỳ;

trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 563 tỷ đồng, tăng 10,9% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 1.440 tỷ đồng, tăng 29,4% so cùng kỳ.

Vận tải đường bộ thực hiện 1.038 tỷ đồng, tăng 17,8%; vận tải đường thủy thực hiện 966 tỷ đồng, tăng 30,6%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 229 tỷ đồng, giảm 24,4% so cùng kỳ.

Năm 2022, vận chuyển hành khách 33.644 ngàn hành khách, tăng 18,8% và luân chuyển 589.245 ngàn hành khách.km, tăng 9,5% so cùng kỳ;

trong đó: vận chuyển đường bộ 16.086 ngàn hành khách, tăng 19,2% và luân chuyển 575.408 ngàn hành khách.km, tăng 9,2% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 17.558 ngàn hành khách, tăng 18,4% và luân chuyển 22.837 ngàn hành khách.km, tăng 16,3% so cùng kỳ.

Năm 2022, vận tải hàng hóa 13.924 ngàn tấn, tăng 33,1% và luân chuyển 1.821.637 ngàn tấn.km, tăng 34,4% so cùng kỳ;

trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 3.189 ngàn tấn, tăng 37,6% và luân chuyển được 334.442 ngàn tấn.km, tăng 20,2% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 10.735 ngàn tấn, tăng 31,8% và luân chuyển 1.487.195 ngàn tấn.km, tăng 38,1% so cùng kỳ.

* Phương tiện giao thông: trong tháng đăng ký mới 4.657 chiếc mô tô xe máy, 409 chiếc ô tô, 04 chiếc xe đạp điện. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.433.598 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 1.385.947 chiếc, 46.623 xe ô tô, 153 xe ba bánh, 320 xe đạp điện và 555 xe khác.

Nhằm phục hồi và phát triển ngành du lịch của tỉnh do ảnh hưởng dịch Covid-19, Ngay từ đầu năm ngành du lịch tiếp tục triển khai Kế hoạch số 378/KH-UBND ngày 15/12/2021 của UBND tỉnh về phục hồi hoạt động du lich trên địa bàn tinh Tiền Giang trong điều kiện thích ứng an toàn Covid-19. Tăng cường quản bá Tiền Giang điểm đến an toàn; phối hợp với các tinh, thành trong Cụm liên kết phía Đông Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung tỉnh có nhiều chính sách mở cửa kịp thời thông thoán, thực hiện nhiều giải pháp có hiệu quả, quá trình phục hồi ngành du lich Tiền Giang có những chuyển biến tích cực và đạt nhiều kết quả khả quan.

Khách du lịch đến tỉnh trong quý IV/2022 số lượng 278 ngàn lượt, tăng 8,9 lần so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 7,7 ngàn lượt. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 1.377 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,3%.

Năm 2022, lượng khách du lịch đến tỉnh 828 ngàn lượt, đạt 92,5% kế hoạch, tăng 1,8 lần so cùng kỳ; trong đó khách quốc tế 22,7 ngàn lượt, đạt 22,7% kế hoạch, tăng 4,1 lần. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 5.184 tỷ đồng, tăng 45,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,9%.

Doanh thu bưu chính - viễn thông 3.391 tỷ đồng, đạt 117,4% kế hoạch và tăng 7,3% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 330 tỷ đồng, đạt 132,6% kế hoạch, tăng 19,3% so cùng kỳ, doanh thu viễn thông 3.061 tỷ đồng, đạt 115,9% kế hoạch, tăng 6,1% so cùng kỳ.

Tổng số thuê bao điện thoại trên mạng ước đến cuối năm 2022 là 121.826 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,87 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây từ đầu năm 2022 đến nay tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Năm 2022 số thuê bao internet phát triển 107.760 thuê bao; tổng số thuê bao internet trên mạng đến cuối năm 2022 là 352.949 thuê bao, mật độ internet bình quân ước đạt 19,91 thuê bao/100 dân.

Mạng điện thoại cố định hoạt động tương đối ổn định, đáp ứng được yêu cầu người tiêu dùng, trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp viễn thông lớn cung cấp dịch vụ này là Viễn thông Tiền Giang và Viettel Tiền Giang. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng 100% trên địa bàn tỉnh, thị trường điện thoại di động có sự tham gia cùng lúc của 05 nhà cung cấp dịch vụ: Vinaphone, MobiFone, Viettel, Vietnamobile và G-Mobile. Chất lượng dịch vụ liên tục được cải thiện, vùng phủ sóng 3G/4G được mở rộng, cước phí giảm, do vậy số lượng thuê bao phát triển tương đối nhanh, nhất là thuê bao 3G/4G.

1. Lao động, giải quyết việc làm:

Trong năm 2022 tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 27.093 lượt lao động, tăng 27% so cùng kỳ; giới thiệu việc làm cho 3.168 lượt lao động, tăng 17% so cùng kỳ; giới thiệu 1.578 lao động có được việc làm, tăng 54,6% so cùng kỳ.

Trợ cấp thất nghiệp 20.399 người người lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 43,6% so cùng kỳ; trong đó 20.209 người lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 40,8% so cùng kỳ với tổng số tiền chi trả 391,5 tỷ đồng.

Người lao động đi làm việc nước ngoài, đến ngày 05/12/2022 có 439 lao động đi làm việc ở nước ngoài gồm Nhật Bản 379 người, Đài Loan 53 người, Hàn Quốc 03 người, Hồng Kông 02 người, Hungary 01 người, Qatar 01 người.

Theo kết quả tổng hợp sơ bộ các địa bàn điều tra mẫu điều tra lao động việc làm năm 2022, tỷ lệ lao động thiếu việc làm chiếm 5,3%, giảm 3,5 điểm phần trăm so cùng kỳ (từ 8,9% xuống 5,3%), làm cho tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị giảm 4,5 điểm phần trăm (12,1% xuống 7,6%) và tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn giảm 3,0 điểm phần trăm (7,4% xuống 4,4%). Tỷ lệ thất nghiệp năm 2022 là 1,4%, giảm 5,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ (6,7% xuống 1,4%) làm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm 6,3 điểm phần trăm (9,4% xuống 3,1%) và tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn giảm 4,8 điểm phần trăm (5,5% xuống 0,7%). Năm 2022 tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 65,9% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh. Năm 2022, thị trường lao động hồi phục sau đại dịch Covid-19, với nhiều chính sách hỗ trợ, số lượng người được giải quyết việc làm tăng lên. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 thế giới lẫn trong nước và tình hình chính trị thế giới bất ổn, suy thoái kinh tế ảnh hưởng tác động lớn đến kinh tế trong nước và tỉnh Tiền Giang đặc biệt từ cuối quý 2/2022 và đầu quý 3/2022, nhiều doanh nghiệp giảm giờ làm, cho nghỉ luân phiên (chủ yếu các doanh nghiệp lớn, trong khu công nghiệp, ngành may mặc, giày da) do giảm đơn hàng từ đối tác nước ngoài, từ đó tác động đến tình trạng việc làm; bên cạnh đó năm 2022 có gần 5.700 lao động Tiền Giang làm việc tại các tỉnh (Bình Dương, Đồng Nai, Long An, TPHCM, Tây Ninh...) mất việc làm về tỉnh đăng ký thất nghiệp và tìm kiếm việc làm khác.

Tranh chấp lao động và đình công trên địa bàn tỉnh trong năm 2022 ghi nhận 04 vụ ngừng việc tập thể tại 04 doanh nghiệp với sự tham gia ngừng việc của khoảng 1.027/2.437 người lao động, giảm 01 vụ so cùng kỳ. Trước tình hình đó, các Sở, ban, ngành, địa phương và doanh nghiệp cùng phối hợp tổ chức các cuộc đối thoại với người lao động nên các vụ ngừng việc nhanh chóng được giải quyết, tình hình tại các doanh nghiệp hiện nay ổn định.

2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:

Theo tổng hợp sơ bộ kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cuối năm 2022, toàn tỉnh còn 6.439 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,27% so tổng số hộ toàn tỉnh 507.486 hộ vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 1,4%); 10.232 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 2,02% so tổng số hộ toàn tỉnh. Trong đó: Vùng Trung tâm giảm còn 1,23%, Vùng phía Tây giảm còn 1,34% và Vùng phía Đông giảm còn 1,65%.

Trong năm 2022, vận động xây dựng và sửa chữa nhà tình nghĩa 229/173 căn nhà, đạt 130%. Nhà ở cho người có công theo Nghị quyết số 28/2021/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh với tổng số nhà phê duyệt 1.209 căn (xây mới: 325 căn, sửa chữa: 884 căn) giai đoạn 2022-2025; trong đó, năm 2022 đã thực hiện 387 căn (xây mới 115 căn; sửa chữa 272 căn).

Vận động quỹ Đền ơn đáp nghĩa đạt gần 12,7/10 tỷ đồng, đạt 126%. Thực hiện bàn giao 11 căn nhà tình nghĩa kinh phí từ nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh hỗ trợ với mức kinh phí 60 triệu đồng/căn (trong đó: Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh hỗ trợ 50 triệu đồng/căn; nguồn Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của địa phương hỗ trợ 10 triệu đồng/căn).

Tổ chức tặng quà Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022, tổ chức thăm, tặng quà, trợ cấp cho người có công, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng y tế tham gia phòng, chống dịch Covid-19 và các đơn vị tập trung trong dịp Tết Nhâm Dần năm 2022: Nguồn kinh phí Trung ương 38.194 người, số tiền 11,6 tỷ đồng; Nguồn kinh phí địa phương 69.460 người, số tiền 27,1 tỷ đồng; Tổ chức 15 Đoàn Ban Thường vụ Tỉnh ủy thăm 80 hộ gia đình chính sách tiêu biểu và 54 đơn vị tập trung, kết hợp với thăm người cao tuổi và trao quà cho hộ nghèo, với số tiền 739,5 triệu đồng.

Tổ chức 75 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ: Tổ chức 14 Đoàn lãnh đạo Thường vụ Tỉnh ủy và lãnh đạo các ngành đi thăm, tặng quà (100 suất) cho người có công và thân nhân người có công khó khăn tại địa phương với số tiền 2 triệu đồng/hộ; Tặng quà của Chủ tịch nước với số lượng 36.611 người, số tiền gần 11 tỷ đồng. Người có công còn lại cũng được Ủy ban tỉnh cho trợ cấp với mức 500.000 đồng/người và mức 01 triệu đồng/người từ nguồn ngân sách tỉnh; Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ, Tỉnh còn xuất ngân sách tặng 174 Mẹ Việt Nam anh hùng còn sống bộ trang phục áo dài, trị giá 2 triệu đồng/bộ; Đoàn của Trung ương do Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa - Bí thư Trung ương Đảng - Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đến thăm, tặng quà cho 03 gia đình người có công, với số tiền 05 triệu đồng/hộ và kèm 01 phần quà trị giá 01 triệu đồng/phần; Tiếp nhận quà của Quỹ Thiện Tâm - Tập đoàn Vingroup, tặng mỗi Mẹ Việt Nam anh hùng còn sống, tiền mặt 05 triệu đồng/mẹ, địa phương tổ chức các đoàn đến trao quà tận tay Mẹ Việt Nam anh hùng trước ngày 27/7/2022.

Thời điểm hiện tại, các trường học trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đang bước giai đoạn chuẩn bị ôn thi học kỳ I cho học sinh. Học sinh các cấp sẽ nghỉ Tết Nguyên đán từ ngày 16/01 đến 28/01/2023 (25 tháng Chạp cho hết mùng 7 tháng Giêng) và tính thêm nghỉ ngày chủ nhật - ngày 29/01, học sinh sẽ được nghỉ liên tục là 14 ngày.

Một số hoạt động nổi bật năm học 2021 - 2022 như sau:

Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp huyện THCS khóa ngày 15/02/2022, có 3.086 học sinh đăng ký tham gia dự thi; kết quả đạt được 1.274 giải; trong đó có 84 giải nhất, 189 giải nhì, 364 giải ba và 637 giải khuyến khích.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2021-2022 (từ ngày 02/3/2022 đến ngày 05/3/2022) tại trường THPT Chuyên Tiền Giang, có 54 thí sinh dự thi ở 09 môn Ngữ văn, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Tin học, Tiếng Anh. Kết quả đạt 09 giải: 01 giải Nhì (Sinh học), 02 giải Ba (Ngữ Văn), 06 giải Khuyến khích (Sinh học, Hóa học, Tiếng Anh, Toán). Đứng hạng 6/13 các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long (sau TP. Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang, Long An), hạng 55/70 đơn vị đăng ký dự thi toàn quốc.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THPT khóa ngày 22/3/2022, có 1.051 học sinh của 31 trường THPT đăng ký tham gia dự thi. Kỳ thi được tổ chức tại 03 địa điểm thi gồm trường THPT Đốc Binh Kiều, THPT Nguyễn Đình Chiểu và Trường THPT Vĩnh Bình. Kết quả đạt được 508 giải: 43 giải nhất, 118 giải nhì, 127 giải ba và 220 giải khuyến khích.

Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THCS khóa ngày 22/3/2022, có 913 học sinh đăng ký tham gia dự thi và đạt được 445 giải: 38 giải nhất, 98 giải nhì, 118 giải ba và 191 giải khuyến khích.

Tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2022-2023 vào các ngày 16, 17, 18/6/2022, Kết quả tỉ lệ từ trung bình trở lên các bài thi: Ngữ văn (81,2%), Toán (53,7%), Tiếng Anh (47,4%). Điểm trung bình các môn thi: Ngữ văn (5,6), Toán (5,9), Tiếng Anh (5,4). Điểm chuẩn nguyện vọng 1 cao nhất: 39,50 (Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu). Điểm chuẩn nguyện vọng 1 thấp nhất: 10.00 (THPT Bình Phục Nhứt THPT Nguyễn Văn Thìn, THCS và THPT Tân Thới). Tổng số thí sinh trúng tuyển là 16.963/18.838 thí sinh dự thi (tỉ lệ 81,4%); 16.642/23.146 học sinh tốt nghiệp THCS (tỉ lệ 71,9%).

Tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT khóa ngày 07, 08/7/2022. Điểm trung bình toàn tỉnh: 6,554 hạng 16 cả nước; Hạng 3 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (sau An Giang và Bạc Liêu). Điểm trung bình tổng 3 môn Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ: 19,17. Đứng hạng 10 cả nước; hạng 1 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Tổng số thí sinh đỗ tốt nghiệp (không tính thí sinh tự do) là 14.560/14.641 thí sinh dự thi (tỉ lệ 99,5%). Trong đó gồm: GDPT 14.154/14.187 (tỉ lệ 99,8%), GDTX 406/454 (tỉ lệ 89,4%).

Trong tháng 12, tổng số lượt người khám bệnh trong tháng: 374.061, trong năm ghi nhận 3.895.049 lượt người, giảm 1,4% so cùng kỳ; tổng số lượt người điều trị nội trú trong tháng: 17.714, trong năm ghi nhận 188.367 lượt người, tăng 9,0% so cùng kỳ. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong năm đạt 62,4%.

Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: Trong tháng, ghi nhận 680 người mắc. Cộng dồn từ đầu năm ghi nhận 8.622 ca và 6 ca tử vong.

Phòng chống HIV/AIDS: Tính đến tháng 12/2022 ghi nhận 6.432 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; tử vong do AIDS: 1.277 người.

COVID-19: Sở Y tế đã ban hành Kế hoạch số 4360/KH-SYT ngày 26/7/2022 nhằm tổ chức lại cơ cấu giường bệnh tại các tầng điều trị, đặc biệt là 220 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 3; trong đó Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang bố trí 100 giường; Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy và Gò Công bố trí 50 giường/bệnh viện; Bệnh viện Lao và Bệnh phổi 20 giường. Các bệnh viện và trung tâm y tế còn lại, mỗi nơi bố trí sẵn sàng từ 50 – 100 giường bệnh điều trị bệnh nhân thuộc tầng 1 và 2.

5. Hoạt động văn hóa - thể thao:

Trong năm 2022, hoạt động văn hóa trên địa bàn diễn ra những sự kiện nổi bật như sau:

Tổ chức 03 cuộc trưng bày, triển lãm; 13 hội thi, liên hoan cấp tỉnh. Tham gia Ngày hội gia đình tiêu biểu các tỉnh, thành phố miền Tây Nam Bộ lần III, Liên hoan Đờn ca tài tử toàn quốc lần thứ 3, Hội thi Múa không chuyên toàn quốc năm 2022, Hội diễn Tiếng hát hẹn hò 9 dòng sông năm 2022, đạt 02 huy chương vàng toàn đoàn, 05 huy chương vàng, 6 huy chương bạc tiết mục, 1 giải nhì và 1 giải khuyến khích. Thực hiện 85 cuộc buổi biểu diễn tuyên truyền các ngày lễ lớn và phục vụ Nhân dân; 91 buổi chiếu phim lưu động; 145 xuất nhạc nước tại quảng trường Hùng Vương.

Tổ chức Hội báo xuân Nhâm Dần năm 2022; tổ chức cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” vòng sơ khảo năm 2022 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, vòng chung kết cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” toàn quốc, Tiền Giang có 1 thí sinh đạt giải đặt biệt, 1 thí sinh đạt giải B, 1 thí sinh đạt giải C và 3 thí sinh đạt giải khuyến khích. Trong năm, luân chuyển đến Thư viện huyện và phòng đọc cơ sở hơn 9.250 bản sách; Thư viện tỉnh phục vụ được 96.701 lượt bạn đọc. Hệ thống thư viện huyện và các phòng đọc cơ sở đã tiếp được hơn 136 nghìn lượt bạn đọc.

Tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương năm 2022, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận bảo vật quốc gia đối với 18 hiện vật vàng lá chạm khắc hình voi văn hóa Óc Eo và di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đối với nhà trung bày số 1 (Bảo tàng tỉnh). Bảo tàng tỉnh và các di tích trực thuộc đã đón hơn 42 nghìn lượt khách tham quan; sưu tầm 177 hiện vật, hình ảnh quý.

Toàn tỉnh có 449.672/468.878 hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, 1.004 ấp, khu phố văn hóa; 165/172 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; 69 chợ văn hóa, 17 công viên, 868 con đường, 558 cơ sở thờ tự văn hóa.

Đại hội Thể dục – Thể thao tỉnh Tiền Giang lần thứ IX năm 2022 với 21 môn, 255 nội dung thi đấu, 13 đơn vị huyện, thành phố, thị xã, ngành Giáo dục và Đào tạo, Công an Tiền Giang; tổng cộng 195 HLV và 1.851 VĐV tham gia, kết quả: Hạng I toàn đoàn - Đơn vị Tp Mỹ Tho, Hạng II toàn đoàn - Đơn vị Huyện Cái Bè và Hạng III toàn đoàn – đơn vị Thị xã Gò Công.

Đoàn Thể thao Tiền Giang tham dự Đại hội thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 tại Quảng Ninh với 13 môn, 113 người tham dự 86 nội dung thi đấu. Kết quả đạt 05 HCV; 04 HCB; 16 HCĐ xếp hạng thứ 37/65 tỉnh thành.

Tổ chức 04 giải Quốc gia, mở rộng; 16 giải thể thao cấp tỉnh và 04 lớp tập huấn, bồi dưỡng. Trong năm 2022, tham dự các giải Quốc tế; Quốc gia và khu vực là 57 giải với tổng số 265 huy chương các loại: 72 HCV, 80 HCB, 113 HCĐ; trong đó tham gia 07 Giải Quốc tế đạt 3 HCV, 3 HCB, 3 HCĐ và 01 HCB tại Saegames 31.

6. Tình hình trật tự an toàn xã hội

(Theo báo cáo của ngành Công an):

Tội phạm về trật tự xã hội trong năm 2022 ghi nhận 851 vụ, giảm 305 vụ so với năm 2021; khám phá 639 vụ, đạt 75,1%, xử lý 888 đối tượng. Phát hiện, xử lý 12 vụ, 12 đối tượng có hành vi tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và xử lý vi phạm hành chính 02 vụ, 77 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; 39 vụ, 40 đối tượng phạm tội, vi phạm pháp luật về kinh tế (mua bán hàng giả 01 vụ, 01 đối tượng; mua bán hàng cấm 02 vụ, 02 đối tượng; vận chuyển hàng cấm 01 vụ; vận chuyển, buôn bán hàng hóa không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp, không rõ nguồn gốc xuất xứ: 32 vụ, 34 đối tượng; kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ: 03 vụ).

(Theo báo cáo của ngành Công an):

: tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 17 vụ, giảm 05 vụ so tháng trước và giảm 20 vụ so cùng kỳ, làm chết 09 người, bị thương 10 người. Nâng tổng số vụ tai nạn từ đầu năm đến nay 361 vụ, làm chết 259 người và bị thương 175 người, thiệt hại tài sản trị giá khoảng 4,4 tỷ đồng. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông chủ yếu vẫn do ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông như: điều khiển xe khi có rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu, không làm chủ tốc độ; không đi đúng phần đường, làn đường; không nhường đường, vượt đèn đỏ, thiếu quan sát…

Trong tháng không xảy ra tai nạn, lũy tính từ đầu năm đến nay, xảy ra 03 vụ tai nạn, làm 02 người chết, không phát sinh người bị thương.

8. Tình hình cháy nổ, môi trường và thiên tai:

Cháy, nổ: trong năm 2022, toàn tỉnh xảy ra 15 vụ cháy, nổ làm 01 người chết; tổng giá trị tài sản thiệt hại khoảng 34,9 tỷ đồng; giảm 16 vụ so với cùng kỳ năm trước.

Lĩnh vực môi trường: trong tháng 12, xảy ra 01 vụ vi phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh đã được xử lý. Trong năm 2022, cơ quan chức năng đã xử lý 22 vụ vi phạm. Tính từ đầu năm đến nay ghi nhận 28 vụ vi phạm đã xử lý, giảm 13 vụ so với cùng kỳ.

Thiên tai: trong tháng 12, trên địa bàn tỉnh không có xảy ra vụ thiên tai nào. Tính từ đầu năm đến nay, ghi nhận 18 cơn lốc xoáy, làm 01 căn nhà bị sập, 119 căn nhà bị tốc mái, 153 điểm sạt lở. Tổng giá trị thiệt hại 180,7 tỷ đồng.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHỤC HỒI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, THỰC HIỆN CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2023.

Năm 2023, kế thừa những thành tựu đạt được, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở huy động đa dạng các nguồn lực, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nhanh chóng phục hồi kinh tế dự báo kinh tế xã hội của tỉnh. Qua kết quả thực hiện năm 2022 và thực trạng kinh tế của tỉnh, Cục Thống kê đưa ra một số dự báo và đề xuất các giải pháp trong thời gian tới nhằm thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 như sau:

- Theo kết quả điều tra xu hướng dự báo sản xuất kinh doanh quý I/2023 so với quý IV/2022 như sau:

Sản xuất kinh doanh: có 42,55% số doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo có tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt lên và 38,3% giữ ổn định; có 19,15% doanh nghiệp tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn. Doanh nghiệp nhà nước có tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ ổn định ở mức 100%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ ổn định ở mức 88,34%. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ ổn định ở mức ở mức 65,63%. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn là 34,38%.

Khối lượng sản xuất, có 37,23% doanh nghiệp tăng, 44,68% doanh nghiệp giữ ổn định, 18,09% doanh nghiệp giảm. Chia ra: khu vực doanh nghiệp nhà nước sản xuất tăng 100%; tiếp đến là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 45%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 18,75%.

Đơn đặt hàng mới, có 36,96% doanh nghiệp tăng đơn hàng, có 44,57% doanh nghiệp giữ nguyên đơn hàng và có 18,48% doanh nghiệp giảm.

Biến động lao động có xu hướng tăng cao; theo đó, có 13,83% doanh nghiệp tăng, có 75,53% doanh nghiệp giữ nguyên và 10,64% doanh nghiệp giảm.

- Thực hiện các giải pháp tăng thu, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất để đảm bảo nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.

- Triển khai thực hiện đồng bộ, chủ động, linh hoạt chính sách về lãi suất, gói hỗ trợ lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; tiếp tục triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường công tác kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi trong vay vốn tín dụng ngân hàng cho doanh nghiệp và người dân.

- Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ bằng các hình thức phù hợp, đặc biệt là hình thức hợp tác công tư (PPP), xã hội hóa… ưu tiên mời gọi đầu tư các dự án quan trọng có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ như: giao thông vận tải, công nghệ thông tin và truyền thông, đô thị, công nghiệp nông nghiệp, nông thôn... Tiếp tục triển khai các dự án, công trình trọng điểm của tỉnh đã được phê duyệt đảm bảo tiến độ theo kế hoạch; phối hợp thực hiện mời gọi đầu tư các tuyến giao thông đô thị, khu dân cư, thương mại. Đầu tư nâng cấp các tuyến đường huyện, đường giao thông nông thôn đạt tiêu chí huyện nông thôn mới, xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao trong giai đoạn 2021-2025.

- Theo dõi diễn biến giá cả phân tích, dự báo, kịp thời đề xuất giải pháp tháo gỡ, bảo đảm cân đối cung- cầu hàng hóa.

- Tập trung tháo gỡ, giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để vượt qua khó khăn trong giai đoạn hiện nay, góp phần phục hồi nhanh hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển ổn định, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Triển khai thực hiện có hiệu quả đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp Tiền Giang đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”; đề án “Cắt vụ, chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng các huyện phía Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”; tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, nhằm năng cao suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh sản phẩm. Tiếp tục hỗ trợ, nâng cao năng lực các hợp tác xã nông nghiệp; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ.

- Tiếp tục mời gọi đầu tư và hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ, nhất là đối với các dự án du lịch đang triển khai để hoàn thành và đưa vào hoạt động; đặc biệt chú trọng đến việc thu hút, hỗ trợ các dự án du lịch quy mô lớn nhằm tạo điểm nhấn, phát triển ngành du lịch Tiền Giang. Hỗ trợ, vận động các địa phương và doanh nghiệp hoạt động đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, phát triển dịch vụ vui chơi giải trí; gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao để khai thác; tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch để góp phần quảng bá, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

- Theo dõi chặt chẻ tình hình thời tiết, chủ động phòng chống thiên tai, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống người dân. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm.

- Các ngành chức năng đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục phát triển xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế; chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu, phát triển xuất khẩu sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh và có thương hiệu mạnh.

- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ về tình hình và chính sách của Đảng, Nhà nước; từ đó tạo sự đồng thuận, chung sức chung lòng thực hiện các mục tiêu kế hoạch đã đề ra.

Năm 2022 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch 5 năm 2021-2025; là năm mà Hà Tĩnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 bùng phát mạnh sau Tết Nguyên đán; tác động xung đột dựa Nga - Ukraine làm giá xăng, dầu, nguyên vật liệu biến động thiếu ổn định; sản xuất ngành công nghiệp bị ảnh hưởng do cung thị trường thép tiêu thụ chậm đã kéo theo sự sụt giảm về sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ lực; lãi suất ngân hàng tăng cao trong những tháng cuối năm; trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động bởi dịch bệnh, thời tiết diễn biến khó lường... đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

Mặc dù nền kinh tế của tỉnh nhà gặp khó khăn, song với sự tập trung cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân, Doanh nghiệp. Hà Tĩnh đã đạt được những kết khá tích cực; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)

Về quy mô kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) của Hà Tĩnh trong năm 2022 ước đạt trên 92.960 tỷ đồng, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; GRDP bình quân đầu người ước đạt 70,47 triệu đồng/năm (tăng 3,77 triệu đồng/người/năm so với năm 2021), cao nhất khu vực Bắc Miền Trung và xếp thứ 9/14 các tỉnh Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung.

Về tốc độ tăng trưởng: Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo nên nền tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập, tạo nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Ước năm 2022, Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,83%, đóng góp 0,11 điểm %; khu vực Công nghiệp, xây dựng giảm 3,23%, làm giảm 1,46 điểm %, (riêng ngành Công nghiệp giảm 8,66% làm giảm 3,29 điểm %); khu vực Dịch vụ tăng 11,73% đóng góp 3,74 điểm %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 17,97%, đóng góp 1,59 điểm % vào mức tăng trưởng chung.

Trong 21 nhóm ngành kinh tế cấp I thì đã có 18 nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng dương, trong đó có những ngành có mức tăng trưởng khá cao như: Ngành xây dựng tăng 24,88%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 14,59%; ngành dịch vụ vận tải kho bãi tăng 14,36%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 61,07%..vv. Tuy nhiên vẫn có 4 nhóm ngành công nghiệp không có tăng trưởng và làm giảm 3,29 điểm % vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Nhìn vào bức tranh kinh tế của Hà Tĩnh cho thấy, đây là năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025 mà Hà Tĩnh chúng ta có mức tăng trưởng không đạt kế hoạch đề ra.

Về nguyên nhân chính dẫn đến nền kinh tế Hà Tĩnh có mức tăng trưởng thấp là do: (1) Sản xuất ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết cực đoan, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa thực sự gắn với phát triển kinh tế nông thôn. (2) Sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; tính từ tháng 7/2022, sản lượng sản xuất sản phẩm từ Công ty Formosa tiếp tục giảm. Cụ thể, ước năm 2022 sản lượng than cốc giảm 189 ngàn tấn, phôi thép giảm 650 ngàn tấn, thép giảm 910 ngàn tấn so với cùng kỳ năm 2021; bên cạnh sản lượng giảm điện sản xuất của Công ty Formosa (giảm 932 triệu KWh) thì tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại đã làm giảm 2171 triệu KWh. Và đây là 2 nguyên nhân chính dẫn đến Hà Tĩnh đạt tăng trưởng không như kỳ vọng.

Nếu tính chung giai đoạn 5 năm trở lại đây từ 2018 đến 2022 Hà Tĩnh có nhiều biến động trong tăng trưởng kinh tế, trong giai đoạn này tăng trưởng của Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 và sự sụt giảm sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp trong năm 2022. Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2018-2022 tăng 8,03%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,29%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 13,27%/năm; khu vực dịch vụ tăng 4,77%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,31%/năm. Như vậy, việc ổn định hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp nói chung và của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn nói riêng đặc biệt của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa; Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước tạo tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế cho những năm tiếp theo và tạo tiền đề cho bước đột phá mới.

Về cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông, LN, thủy sản. Cụ thể, ước năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,01%, giảm 0,58 điểm % so với năm 2021; khu vực công nghiêp - xây dựng chiếm 40,24% giảm 3,11 điểm %; khu vực dịch vụ chiếm 34,87%, tăng 2,55 điểm %; khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,88% tăng 1,14 điểm %.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2022, mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả sản xuất vẫn đảm bảo kế hoạch đề ra về cơ cấu giống và thời vụ sản xuất. Sản lượng các cây trồng chủ lực của địa phương vẫn có mức tăng khá như cam, bưởi, ngô, khoai, sắn, rau các loại...Bên cạnh đó, các mô hình tích tụ, tập trung ruộng đất, cánh đồng lớn, chuỗi lên kết sản xuất tiếp tục được phát triển qua đó thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới, cơ giới hóa sản xuất; Chăn nuôi được phát triển theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường và kiểm soát dịch bệnh, hoạt động chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể do giá cả thất thường trong khi giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao; Hoạt động trồng, chăm sóc, khoanh nuôi rừng đạt kết quả ổn định và tăng nhẹ so với năm trước, công tác phòng cháy chữa cháy rừng, quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm, tăng cường chỉ đạo; Sản xuất thủy sản duy trì mức tăng trưởng nhẹ so với năm trước.

Cây hàng năm: Kết quả sản xuất năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh sơ bộ tăng 0,17% (tăng 276 ha) so với năm 2021. Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm sơ bộ giảm 2,54% (giảm 16.062 tấn) so với thực hiện năm trước. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:

Cây lúa: Diện tích gieo trồng lúa cả năm sơ bộ giảm 169 ha so với năm 2021. Trong đó: Diện tích lúa vụ Đông Xuân đạt 59.813 ha, bằng 100,56% (tăng 335 ha); vụ Hè Thu đạt 44.526 ha, bằng 99,05% (giảm 429 ha) và vụ Mùa đạt 415 ha, bằng 84,64% (giảm 75 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu diện tích lúa Hè Thu năm nay giảm là do sản xuất vụ Đông Xuân kết thúc chậm hơn so với kế hoạch đề ra gây ảnh hưởng đến việc gieo cấy lúa. Ngoài ra, năm nay được đánh giá là năm thời tiết thất thường mưa nhiều nắng ít nên đã gặp khó khăn trong việc gieo cấy.

Năng suất gieo trồng lúa cả năm 2022 sơ bộ giảm 2,03 tạ/ha so với năm trước, trong đó: Năng suất gieo trồng lúa vụ Đông Xuân đạt 55,87 tạ/ha, bằng 94,77% (giảm 3,08 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 50,32 tạ/ha, bằng 98,44% (giảm 0,8 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 16,44 tạ/ha, bằng 86,96% (giảm 2,47 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước do gặp điều kiện thời tiết bất thường ở một số giai đoạn sinh trưởng phát triển.

Tổng sản lượng lúa năm 2022 sơ bộ giảm 22.213 tấn so với năm 2021. Trong đó: Sản lượng lúa Đông Xuân đạt 333.566 tấn, bằng 95,36% (giảm 16.227 tấn); vụ Hè Thu đạt 224.062 tấn, bằng 97,5% (giảm 5.742 tấn) và sản lượng lúa vụ Mùa đạt 682 tấn, bằng 73,6% (giảm 244 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Do vụ Hè Thu, vụ Mùa giảm diện tích và cả ba vụ sản xuất giảm năng suất nên sản lượng lúa năm 2022 giảm so với năm 2021.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2022 sơ bộ tăng 767 ha so với năm trước. Trong đó diện tích gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 10.712 ha, bằng 105,22% (tăng 532 ha) và diện tích vụ Hè Thu đạt 2.239 ha, bằng 111,71% (tăng 235 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích ngô tăng là do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng cao nên người dân tận dụng tối đa diện tích trồng ngô để phục vụ mục đích chăn nuôi. Năng suất ngô cả năm sơ bộ tăng 2,19 tạ/ha so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 46,41 tạ/ha, bằng 103,6% (tăng 1,61 tạ/ha) và vụ Hè Thu đạt 41,39 tạ/ha, bằng 114,84% (tăng 5,35 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Do cả diện tích và năng suất tăng nên sản lượng ngô cả năm tăng 6.151 tấn so với năm 2021.

Cây khoai lang: Diện tích trồng khoai lang năm 2022 sơ bộ tăng 191 ha so với năm trước. Trong đó: Diện tích gieo trồng khoai lang vụ Đông Xuân đạt 3.120 ha, bằng 105,97% (tăng 176 ha); vụ Hè Thu đạt 595 ha, bằng 106,98% (tăng 39 ha) và vụ Mùa đạt 46 ha, bằng 66% (giảm 24 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích tăng do một số huyện người dân được hỗ trợ giống cây khoai lang nên chuyển từ các loại cây khác sang trồng cây khoai lang. Năng suất khoai lang cả năm sơ bộ giảm 0,04 tạ/ha so với năm 2021. Trong đó: Năng suất vụ Đông Xuân đạt 75,52 tạ/ha, bằng 99,53% (giảm 0,35 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 59,86 tạ/ha, bằng 100,39% (tăng 0,23 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 40,29 tạ/ha, bằng 95,93% (giảm 1,71 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khoai lang cả năm sơ bộ tăng 1.370 tấn so với năm 2021. Do diện tích tăng trong khi năng suất vẫn giữ ổn định nên sản lượng khoai lang tăng.

Cây sắn: Diện tích gieo trồng sắn năm 2022 sơ bộ đạt 2.625 ha, bằng 107,15% (tăng 175 ha) so với năm trước. Năng suất sơ bộ đạt 152,45 tạ/ha, bằng 100,86% (tăng 1,31 tạ/ha), với sản lượng sơ bộ đạt 40.025 tấn, bằng 108,08% (tăng 2.992 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân tăng do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng nên bà con nông dân trồng sắn làm thức ăn chăn nuôi để giảm bớt chi phí.

Cây lạc: Năm 2022, diện tích gieo trồng lạc sơ bộ giảm 1.182 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng đạt 8.826 ha, bằng 88,07% (giảm 1.196 ha) và vụ Hè Thu đạt 368 ha, bằng 103,75% (tăng 14 ha) so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích lạc giảm là do một số xã chủ động được nước tưới nên chuyển diện tích trồng lạc sang trồng lúa hoặc trồng rau cho kinh tế cao hơn. Ngoài ra, do chi phí đầu vào tăng cao (giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) nên người nông dân không mặn mà trong sản xuất lạc mà chuyển sang cây trồng khác. Năng suất lạc cả năm sơ bộ giảm 3,85 tạ/ha so với năm trước. Do giảm cả diện tích và năng suất nên sản lượng lạc cả năm ước tính giảm 6.861 tấn so với năm trước.

Cây rau các loại: Năm 2022, diện tích gieo trồng rau sơ bộ tăng 483 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng rau các loại đạt 11.098 ha, bằng 103,19% (tăng 344 ha); vụ Hè Thu diện tích gieo trồng đạt 2.866 ha, bằng 105,79% (tăng 157 ha) so với cùng kỳ năm trước và diện tích rau vụ Mùa đạt 194 ha, bằng 91,94% (giảm 18 ha). Năng suất rau cả năm sơ bộ tăng 0,67 tạ/ha với sản lượng rau cả năm sơ bộ tăng 4.325 tấn so với năm trước. Năm nay do lượng mưa nhiều, ít nắng hạn nên thuận lợi cho việc sản xuất các loại rau.

Về diện tích: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có sơ bộ đạt 31.825 ha, bằng 101,03% (tăng 326 ha) so với năm 2021, trong đó:

Tổng diện tích cây ăn quả sơ bộ đạt 19.587 ha, bằng 102,54% (tăng 486 ha) so với năm 2021, chiếm 61,55% tổng diện tích cây lâu năm. Trong đó diện tích các loại cây ăn quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 13.456 ha, bằng 103,94% (tăng 510 ha) so với năm 2021, chiếm 68,70% tổng diện tích cây ăn quả. Diện tích cây cam sơ bộ đạt 7.616 ha, tăng 140 ha, trong đó diện tích cam cho sản phẩm 6.494 ha, tăng 432 ha; diện tích bưởi sơ bộ đạt 4.410 ha, tăng 461 ha, diện tích bưởi cho sản phẩm 2.996 ha, tăng 137 ha...Cây có múi vẫn đang là một trong những sản phẩm cây ăn quả hàng hóa chủ lực của Hà Tĩnh và đang được các địa phương quan tâm đầu tư sản xuất.

Diện tích cây cao su sơ bộ đạt 8.460 ha, bằng 99,63% (giảm 31 ha) so với năm 2021, trong đó diện tích cho sản phẩm tăng 422 ha. Trong năm 2022, thanh lý 4 ha cao su với sản lượng 100 m3, giá trị 53 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn không trồng mới cây cao su.

Diện tích chè búp sơ bộ đạt 1.266 ha, bằng 102,01% (tăng 25 ha) và diện tích chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 1.763 ha, bằng 93,18% (giảm 129 ha) so với năm 2021. Nguyên nhân giảm là do diện tích đất trồng bị thu hồi để phụ vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đường giao thông...Một số diện tích tại vườn nhà không hiệu quả, cây trồng lâu năm già cỗi, người dân phá bỏ trồng các loại cây khác.

Về sản lượng: Do không ngừng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cùng với điều kiện thời tiết năm nay không xẩy ra hạn hán, ít sâu bệnh và diện tích được mở rộng nên sản lượng các loại cây ăn quả tăng hơn so với năm 2021.

Sản lượng cây ăn quả năm 2022 sơ bộ đạt 166.340 tấn, bằng 102,29% (tăng 3.727 tấn) so với năm 2021. Trong đó sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 115.763 tấn, bằng 103,20% (tăng 3.588 tấn) so với năm 2021: Sản lượng bưởi tăng 2.451 tấn; sản lượng cam tăng 1.436 tấn...Thời điểm này, bưởi đang tập trung thu hoạch chính vụ. Vụ cam năm nay do thời điểm khi cây ra hoa, kết trái gặp phải thời tiết mưa lạnh thất thường nên năng suất giảm hơn năm trước.

Sản lượng cao su sơ bộ đạt 4.091 tấn, bằng 111,50% (tăng 422 tấn). Cây đến kỳ khai thác cho mủ khá tốt, chất lượng mủ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.

Sản lượng chè búp sơ bộ đạt 10.652 tấn, bằng 108,16% (tăng 804 tấn) và sản lượng chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 19.668 tấn, bằng 98,61% (giảm 277 tấn) so với năm 2021. Chè chủ yếu tập trung ở các địa phương Hương Sơn, Hương Khê, huyện Kỳ Anh, Can Lộc, Thạch Hà...

Trên cây lúa: Ốc bươu vàng phát sinh gây hại giai đoạn mạ, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích nhiễm 75 ha, gây hại chủ yếu vùng sâu trũng tại Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,…; bệnh đạo ôn lá gây hại hầu hết tại các địa phương với tỷ lệ bệnh trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 356 ha, trong đó nhiễm nặng 36,2 ha ; bệnh đạo ôn cổ bông phát sinh gây hại ở hầu hết các địa phương, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 400 ha, trong đó 30,2 ha nhiễm nặng; bệnh khô vằn phát sinh gây hại trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón thừa đạm, tỷ lệ trung bình 3-7%, diện tích nhiễm 1.978 ha, trong đó 5 ha nhiễm nặng, phân bố trên toàn tỉnh; bệnh bạc lá, tỷ lệ trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 200 ha, phân bố tại Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương khê, Lộc Hà; rầy nâu, rầy lưng trắng xuất hiện cục bộ dạng ổ ở Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh mật độ 700-1500con/m2, diện tích 2,7 ha; chuột phát sinh gây hại trên toàn tỉnh, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 280 ha.

Trên cây lạc: Bệnh héo rũ gốc mốc đen, mốc trắng phát sinh gây hại tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 35 ha, nhiễm nặng 1,3 ha phân bố tại Lộc Hà, Thạch Hà, Hương Khê, Vũ Quang,...

Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô 3-7 lá, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích 5,3 ha, phân bố tại Vũ Quang, Hương Khê..; bệnh khô vằn diện tích nhiễm 22,5 ha tập trung ở Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn,...

Trên cây ăn quả có múi: Sâu vẽ bùa, sâu nhớt gây hại trên lộc xuân, diện tích nhiễm 68 ha; sâu xanh bướm phượng mật độ 1-3 con/cành, diện tích nhiễm 15 ha, sâu đục thân, đục cành 5 ha; bệnh loét sẹo, diện tích nhiễm 7 ha, phân bố tại Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Can Lộc,…

Trên cây lúa: Rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại chủ yếu trên diện tích sâu trũng, gieo cấy dày, mật độ trung bình 300-500 con/m2, diện tích nhiễm 12 ha, phân bố chủ yếu ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn,…; bệnh khô vằn gây hại chủ yếu trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón phân không cân đối, thừa đạm, diện tích nhiễm 1.301 ha, trong đó 41 ha nhiễm nặng phân bố hầu hết các địa phương trong tỉnh; bệnh bạc lá với diện tích nhiễm 3 ha, phân bố tại Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Cẩm Xuyên, Lộc Hà,..; chuột phát sinh gây hại với tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 232 ha, phân bố hầu hết các địa phương.

Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô sớm, diện tích nhiễm 5 ha, bệnh đốm lá 15 ha, sâu đục thân, đục bắp 7 ha, tập trung tại Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Cẩm Xuyên…

Trên cây ăn quả có múi: Nhện nhỏ, diện tích nhiễm 23 ha; rệp muội, diện tích nhiễm 18 ha; ruồi đục quả , diện tích nhiễm 21 ha, bệnh nứt thân xì mủ phát sinh gây hại chủ yếu trên vườn cây lâu năm, thoát nước kém, diện tích nhiễm 13 ha, phân bố tại Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc,…

Năm 2022, kết quả chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể. Dịch bệnh tuy không gây thiệt hại lớn như những năm trước nhưng vẫn còn xuất hiện gây hại đối với đàn vật nuôi. Hậu quả mần bệnh của dịch tả lợn Châu Phi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, gây tâm lý e ngại trong việc tái đàn của người dân. Cùng với đó, trong thời gian qua chi phí chăn nuôi tăng cao trong khi giá bán thấp và thiếu ổn định, đặc biệt là giá trâu, bò hơi giảm; các tổ chức tín dụng thắt chặt cho vay nên nguồn vốn đầu tư cho chăn nuôi gặp khó khăn, nhất là đối với các cơ sở chăn nuôi đang còn dư nợ các tổ chức tín dụng. Đây chính là những rào cản đối với sự phát triển chăn nuôi trên địa bàn thời gian qua và tiếp tục sẽ vẫn là những khó khăn trong thời gian tới.

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, một số dịch bệnh xuất hiện trên đàn vật nuôi, cụ thể như sau: Dịch tả lợn Châu Phi xẩy ra tại 41 xã thuộc 9 huyện, thành phố, thị xã (Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, Thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, Thành phố Hà Tĩnh), tổng số lợn mắc bệnh, buộc phải tiêu hủy 946 con, khối lượng hơn 51 tấn. Dịch lở mồm long móng xẩy ra tại 9 xã, thị trấn thuộc 5 huyện (huyện Kỳ Anh; Hương Khê; Thạch Hà; Cẩm Xuyên; Nghi Xuân) với số lượng 40 con trâu, 136 con bò và 1 con lợn mắc bệnh và đã được điều trị khỏi bệnh. Dịch bệnh viêm da, nổi cục xẩy ra tại xã Quang Thọ, huyện Vũ Quang và 4 xã (Ích Hậu; Phù Lưu; Hồng Lộc; Thạch Châu) thuộc huyện Thạch Hà làm 8 con trâu và 3 con bò mắc bệnh, trong đó có 2 con bò bị chết tiêu hủy với trọng lượng 108 kg. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục đã được khống chế và qua 21 ngày. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ và xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tổng số gia cầm bị ốm, chết và buộc tiêu hủy 4.913 con. Thời gian tới, để phát triển chăn nuôi bên cạnh các chính sách nhằm phát triển đàn thì công tác phòng, chống dịch bệnh phải tiếp tục được quan tâm thực hiện để đảm bảo an toàn cho đàn vật nuôi phát triển.

Hoạt động trồng và khai thác rừng năm 2022 vẫn được các cấp chính quyền cũng như người dân quan tâm thực hiện và đạt kết quả khá hơn so với năm 2021. Kết quả trồng rừng tập trung năm 2022 tăng 101 ha so với năm 2021. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: Huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác năm 2022 ước tính tăng 27.066 m3 so với năm 2021.

Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xẩy ra 1 vụ cháy rừng (giảm 2 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 0,4 ha (giảm 0,83 ha) và 106 vụ phá rừng (giảm 6 vụ), với diện tích rừng bị phá là 49,483 ha (giảm 0,411 ha) so với năm trước.

Năm 2022, sản xuất thủy sản trên địa bàn Hà Tĩnh nhìn chung ổn định và có sự tăng nhẹ (tăng 1,56% tương đương tăng 846 tấn) so với năm 2021. Sản lượng khai thác chiếm 70,5% tổng sản lượng thủy hải sản, tăng 343 tấn và sản lượng nuôi trồng năm 2022 ước tính tăng 503 tấn so với năm 2021. Mặc dù giá bán sản phẩm tương đối ổn định nhưng giá nhiên liệu và các chi phí khác trong thời gian qua tăng quá cao nên ngư dân gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt thấp. Cùng với đó là điều kiện, phương tiện, tiềm lực khai thác biển đầu tư phát triển chậm nên khó để tạo ra bước đột phá trong khai thác hải sản.

Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 15/12/2022, đối với tôm nuôi bệnh đốm trắng với diện tích nhiễm bệnh là 87,3 ha và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với diện tích nhiễm bệnh là 9,23 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, tiến hành dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan và gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm.

Năm 2022, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, các sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất công nghiệp như điện sản xuất, thép giảm đã “kéo” giảm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh xuống còn 16,53% so với cùng kỳ năm 2021 và đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế tỉnh nhà.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)

Ước tính tháng 12/2022, chỉ số sản xuất toàn ngành giảm 1,41% so với tháng trước và giảm 15,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước tăng 5,56% so với tháng trước và giảm 6,5% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước giảm 1,33% so với tháng trước và giảm 15,88% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính giảm 2,9% so với tháng trước và giảm 10,8% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xả lý rác thải dự ước tăng 3,03% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 23,46%.

Tính chung cả năm 2022, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính giảm 16,53% so với năm 2021. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 4,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,11%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,37%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 17,45% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 9 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn cả năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 5 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 190,15%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 65,72%; sản xuất đồ uống tăng 20,17%; sản xuất thuốc, hóa dược và dượ liệu tăng 18,22%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 10,63%.

Bên cạnh những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thì vẫn còn có 9 nhóm ngành giảm, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 29,37%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 19,33%; sản xuất kim loại giảm 16,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 11,11%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 9,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 7,79%; khai khoáng khác giảm 5,3%; dệt giảm 1,49%; khai thác quặng kim loại giảm 1,02%.

Chỉ số tiêu thụ: Tính chung 12 tháng, chỉ số tiêu thụ giảm 19,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm sâu như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 64,16%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 25,13%; sản xuất kim loại giảm 21,05%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,88%. Như vậy trong năm 2022 nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn hiện nay.

Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2022 tăng 26,01% so với tháng trước và tăng 65,51% cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 102,31%; sản xuất đồ uống tăng 82,21%; dệt tăng 55,25% … Với kết quả này cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của một số doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho của sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh (tăng 136,4% so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được, mà do doanh nghiệp giữ lại nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động của mình.

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

4.1 Tình hình đăng ký kinh doanh

Năm 2022 vừa qua, Hà Tĩnh đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Ước đến ngày 20/12/2022, toàn tỉnh thành lập mới 1.380 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký gần 10.000 tỷ đồng (tăng 27,07% về số lượng và giảm 24,61% về số vốn đăng ký). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,2 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2021 là 12,21 tỷ đồng); đã hỗ trợ đào tạo trên 1.000 lượt người về quản trị doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp; có trên 400 doanh nghiệp tái gia nhập thị trường, tăng hơn 18% so với năm trước; 100% doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức đã áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ.

Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong năm vừa qua, do nhiều yếu tố tác động khác nhau đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể toàn tỉnh có 475 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (tăng 12,29% so với cùng kỳ năm 2021), 192 doanh nghiệp giải thể (tăng 34,26% so với cùng kỳ năm 2021). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trong năm qua là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.

Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, là điểm sáng của cả nước trong việc thu hút đầu tư. Cụ thể, trong năm vừa qua, Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 18 dự án, trong đó 16 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn gần 5.000 tỷ đồng, 02 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn hơn 278 triệu USD. Đã kết nối, xúc tiến dự án với các nhà đầu tư lớn đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, đô thị, du lịch, dịch vụ, phát triển nông nghiệp hữu cơ; tiếp tục đầu tư, phát triển Khu kinh tế Vũng Áng theo Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tính đến thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra. Ngoài Nhiệt điện Vũng Áng II, các dự án lớn khác trong quá trình xây dựng như: Nhà máy Sản xuất Pin VinES (TX Kỳ Anh) dự kiến chạy thử trong quý I/2023; nhà máy bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh đã đi vào sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp Cổng Khánh 2, khu đô thị TNR tại Thị xã Hồng Lĩnh, huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Thị xã Kỳ Anh... cũng đang được các nhà thầu tập trung thực hiện.

4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh năm tiếp theo có xu hướng tăng lên so với năm hiện tại chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy tình hình sản xuất ngành công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực và thuận lợi hơn trước. Cụ thể:

Doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (53,49% doanh nghiệp); doanh nghiệp dự báo xu hướng giữ nguyên là 25,58% và 20,93% doanh nghiệp cho rằng năm tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.

Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (53,49%); doanh nghiệp dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 20,93%.

Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (50%). Điều này cho thấy số lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu thụ trong và xuất khẩu ra nước ngoài vẫn tiếp tục giữ ổn định trong năm 2023.

Với những điểm mới trong năm 2023, tỷ lệ số các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động năm tiếp theo sẽ vẫn giữ nguyên chiếm 65,12%; tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 20,93%.

Trong năm tiếp theo, Hà Tĩnh đang kỳ vọng sự tăng trưởng từ những dự án mới như: Nhà máy Bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh vừa đi vào vận hành; Nhà máy sản xuất Pin VinES dự kiến hoạt động vào cuối quý I/2023. Các dự án sắp sửa hoạt động trong thời gian tới đây sẽ góp phần làm đa dạng sản phẩm, gia tăng GTSX để ngành công nghiệp tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.

5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:

Năm 2022 ghi nhận sự phục hồi và tăng trưởng tích cực từ nhóm ngành thương mại, dịch vụ, mặc dù còn có những khó khăn do biến động khó lường về tình hình giá cả nhất là nhóm nhiên liệu xăng, dầu, khí đốt theo tình hình chung của Thế giới, cũng như ảnh hưởng của thời tiết đến cung các loại hàng hóa nông nghiệp. Tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán dự báo sẽ là tháng sôi động của thị trường bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các loại hình dịch vụ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Năm 2022 đạt 52.885,7 tỷ đồng, tăng 26,09% so với năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa đều có doanh thu tăng so với năm 2021, trong đó, doanh thu tăng mạnh ở các nhóm hàng như: đá quý, kim loại quý tăng 56,15%; xăng, dầu các loại tăng 47,97%; hàng may mặc tăng 45,62%; hàng hóa khác tăng 39,32%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,15%; nhiên liệu khác tăng 26,45%; riêng nhóm ngành lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất ước đạt 22.991,79 tỷ đồng và có mức tăng cao 24,01%. Nguyên nhân doanh thu bán lẻ tăng cao trước hết do thu nhập người dân trong năm đã có bước khởi sắc so với năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid 19 nên nhu cầu mua sắm tăng cao, nhất là những tháng cuối năm chuẩn bị Tết Nguyên đán. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của sự tăng lên của giá cả, các nhóm hàng xăng dầu, nhiên liệu, sắt, thép, kim loại quý, đồ dùng công nghệ cao giá ở mức cao do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tác động của yếu tố mùa vụ khi thời tiết chuyển biến thất thường, nắng nóng kéo dài đến những tháng cuối năm mới chuyển rét lại rét đậm ảnh hưởng năng suất các loại cây trồng, vật nuôi, buộc người dân phải nhập hàng từ vùng khác.

Nhìn chung, kinh tế Hà Tĩnh và tình hình hoạt động thương mại của tỉnh trong cả năm chịu nhiều tác động bởi tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Những lo ngại về lạm phát, suy giảm kinh tế tác động đến cung cầu, giá cả nhiều nhóm hàng hóa trong nước. Tỷ giá ngoại tệ tăng, các nền kinh tế lớn điều chỉnh lãi suất và những bất ổn chính trị trên thế giới dẫn tới chuỗi cung ứng toàn cầu mất ổn định.

Trong bối cảnh đó, thị trường bán lẻ hàng hoá trong tỉnh vẫn rất sôi động. Cơ cấu doanh thu cũng có sự chuyển dịch từ chợ truyền thống sang các cửa hàng kinh doanh trên đường phố, ngõ xóm; chuyển từ các công ty, cơ sở cá thể trong tỉnh sang các tập đoàn, chuỗi bán lẻ trong nước. Đặc biệt thị phần bán lẻ của một số ngành nghề như bán lẻ điện thoại, đồ điện tử, điện lạnh, gia dụng trên địa bàn tỉnh của các doanh nghiệp ngoài tỉnh chiếm thị phần lớn. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hoá lưu thông trong các cơ sở, doanh nghiệp bán hàng trực tuyến ngày càng tăng. Những yếu tố này đã tạo ra một thị trường kinh doanh đa dạng, có sức cạnh tranh cao, chất lượng hàng hoá ngày càng đi lên. Công tác kiểm tra, giám sát, chống gian lận thương mại, hàng giả, kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhân dân và doanh nghiệp.

Dịch vụ l­ưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành năm 2022 dự tính đạt 6.073,1 tỷ đồng, tăng 74,01% so với năm 2021. Trong đó: Dịch vụ lưu trú đạt 245,63 tỷ đồng, tăng 123,28%; lượt khách phục vụ 1.352.209 lượt khách, tăng 95%; ngày khách 1.081.562 ngày khách, tăng 76,52% so với năm trước; Dịch vụ ăn uống dự tính 5.811,25 tỷ đồng, tăng 72,3% so với năm trước; Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch dự tính đạt 16,22 tỷ đồng, tăng 120,51%. Lượt khách theo tour 7.366 lượt khách tăng 40,12%, ngày khách du lịch theo tour 24.499 ngày khách tăng 75,43% so với năm trước.

Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh đang phục hồi tích cực sau năm 2021 bị hạn chế hoạt động. Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nguyên nhân tăng của nhóm ngành này có thế kể đến do: Thứ nhất thể hiện đời sống người dân đã được nâng lên rõ rệt so với năm 2021; thứ hai, do yếu tố tâm lý sau 1 năm bị kìm chế đến năm 2022 mọi hoạt động đã được tổ chức có quy mô và đầu tư hơn nhất là trong các dịp lễ, ngày nghỉ...; thứ ba, do yếu tố giá cả thực phẩm tăng, và ảnh hương tăng từ nhóm hàng ga, nhiên liệu kéo theo các chi phí khác tăng. Bên cạnh đó, không thể không kể sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại cũng như việc chính quyền và các doanh nghiệp đã đầu tư hơn cho chất lượng và hạ tầng các dịch vụ phục vụ lưu trú, ăn uống, các điểm du lịch Hà Tĩnh, đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, thu hút lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng. Ngoài số lượng khách nội tỉnh, khách du lịch ngoại tỉnh đến với Hà Tĩnh bắt đầu tăng lại khả quan hơn thời điểm trước dịch.

Dịch vụ khác năm 2022 ước tính đạt 2.578,04 tỷ đồng, tăng 73,78% so với năm trước. Hầu hết các nhóm ngành dịch vụ khác đều tăng mạnh so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 79,43%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 63,86%; giáo dục đào tạo tăng 131,35%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 56,21%; dịch vụ tăng 109,06%. Chỉ có duy nhất nhóm y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 3,03% do năm 2021 hoạt động y tế đạt doanh thu ở dịch vụ hỗ trợ Covid, bước sang năm 2022 việc dịch bệnh đã được kiểm soát và người dân đã nâng cao nhận thức về tự phòng chống dịch vì vậy nhóm doanh thu này giảm so với năm 2021.

Nhìn chung, việc tăng doanh thu ở nhóm dịch vụ khác chủ yếu ở các nguyên nhân cụ thể sau: Thứ nhất, nhờ tác động của các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương được thực hiện hiệu quả và cũng có những giải pháp kịp thời khắc phục những khó khăn đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, tạo thuận lợi cho hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển. Thứ hai, Hà Tĩnh chủ yếu phát triển dịch vụ nên việc các ngành dịch vụ đã hoạt động mạnh trở lại nên thu nhập người dân đảm bảo hơn, nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ y tế, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ làm đẹp tăng. Thứ ba, thời tiết nắng nóng kéo dài khá lâu, mùa mưa lạnh đến chậm hơn nên tạo điều kiện cho người dân triển khai các công trình xây dựng cá nhân, các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Dự ước những năm tới hoạt động dịch vụ khác sẽ tăng trưởng khả quan theo đà tăng trưởng của năm 2022.

Cũng như các ngành dịch vụ, năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của hoạt động vận tải. Việc tăng giá nhiên liệu đẩy phí vận tải tăng lên tuy nhiên không ảnh hưởng đến sức tiêu dùng hoạt động của người dân và các tổ chức kinh tế, ngược lại việc giá phục vụ cao cộng với sự can thiệp của các cơ quan chức năng đã nâng cao ý thức của các lái xe tuân thủ về tải trọng cũng như lượng hành khách phục vụ đảm bảo an toàn giao thông, vận tải. Trong năm chỉ có hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm do việc xuất khẩu hàng hóa gặp khó khăn số lượng hàng hóa thông qua cảng giảm.

Doanh thu vận tải, kho bãi năm 2022 ước đạt 5.446,13 tỷ đồng, tăng 25,45% so với năm 2021. Trong đó:

Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 1.195,81 tỷ đồng, tăng 42,38% so với năm trước. Số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 15.424,46 nghìn HK, tăng 39,44% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 2.644,88 triệu HK.km, tăng 42,15% so với năm trước. Việc chú trọng đầu tư của các đơn vị kinh doanh lữ hành, lưu trú, nhà hàng là những yếu tố quan trọng đóng vai trò “kích cầu” tăng nhu cầu du lịch, đi chơi vào các dịp nghỉ lễ, cũng như nhu cầu đi lại hàng ngày đi học và làm việc nội và ngoại tỉnh cộng với việc tăng giá vé phục vụ đã khiến doanh thu vận tải hành khách đạt mức tăng kỷ lục, tuy nhiên việc tỉ trọng doanh thu của vận tải hành khách thấp hơn nhiều so với vận tải hàng hóa nên kết quả tăng chung của ngành vận tải vẫn chỉ đạt trên 25%.

Vận tải hàng hóa ước đạt 3.401,34 tỷ đồng, tăng 29,54% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 38.193,31 nghìn tấn, tăng 30,12% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 971,99 triệu tấn.km, tăng 27,89% so với cùng kỳ năm trước. Do thời tiết thuận lợi cho các công trình xây dựng, san lấp mặt bằng thực hiện thi công nên nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải hàng hóa tăng. Nhu cầu xây dựng, sửa sang nhà cửa trong nhân dân tăng cùng với việc đẩy mạnh công tác chỉnh trang đô thị, nhiều dự án đang được triển khai đầu tư nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng.

Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 848,05 tỷ đồng, giảm 3,16% so với năm trước. Nguyên nhân do khối lượng hàng hóa thông qua cảng giảm cũng như nhu cầu đăng kiểm giảm hơn. Mặc dù các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi nên nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa năm 2022 tăng khá cao so với năm 2021. Tuy nhiên, do chi phí xăng, dầu, lãi suất ngân hàng...tăng cao nên các đơn vị hoạt động vận tải trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2022 vượt dự toán Trung ương và HĐND tỉnh giao điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp Hà Tĩnh đã thích nghi với trạng thái bình thường mới, duy trì sản xuất, kinh doanh ổn định trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát. Trong bối cảnh thực hiện nhiều chính sách phục hồi kinh tế như miễn, giảm, giãn các khoản thuế, phí để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, Hà Tĩnh đang làm tốt nhiệm vụ thu ngân sách và cân đối, phát triển nền kinh tế. Chi ngân sách Nhà nước trong năm cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương.

Năm 2022 tổng thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) trên địa bàn tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 14.606 tỷ đồng giảm 5,44% so với năm 2021. Trong đó, thu nội địa đạt 8.028 tỷ đồng tăng 1,28% so với năm 2021, tập trung chủ yếu vào các nguồn thu lớn như từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, thuế ngoài quốc doanh đạt 3.137 tỷ đổng tăng 14,65% so với năm 2021; các khoản thu về nhà đất đạt 2.953 tỉ đổng giảm 3,67%. Năm 2022 các khoản thu từ thuế, phí giảm chủ yếu do áp dụng nhiều chính sách của Trung ương hỗ trợ thuế để phục hồi phát triển kinh tế, một số dự án mới dự kiến đóng góp lớn vào thu ngân sách trong năm nhưng đến nay chưa triển khai đầu tư. Bên cạnh các khoản thu nội địa thì thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 6.335 tỉ đồng giảm 6,38% so với năm trước. Trong đó, thu hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 9.047,58 tỷ đồng, tăng 16,10 % so với năm trước nguyên nhân chủ yếu do giá các mặt hàng nhập khẩu như than, dầu, quặng (chủ yếu phục vụ sản xuất của Formosa) tăng cao đem lại nguồn thu lớn; hoàn thuế giá trị gia tăng đạt 2.713 tỉ đồng tăng 164,45% so với cùng kỳ.

Trên cơ sở tiến độ thu ngân sách thực tế, với các giải pháp điều hành linh hoạt, hợp lý nên chi ngân sách cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 19.128 tỷ đồng giảm 4,63% so với năm 2021. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 8.565 tỷ đồng, chiếm 44,78% tổng chi, giảm 11,46% so với cùng kỳ năm 2021; chi thường xuyên đạt 10.476 tỷ đồng chiếm 54,77% tăng 1,07% so với năm 2021. Chi đầu tư giảm so với cùng kỳ nguyên nhân công tác giải ngân vốn đầu tư công một số dự án còn chậm; vướng mắc trong thủ tục và trong công tác đền bù GPMB.

Hoạt động ngân hàng Hà Tĩnh năm 2022 cơ bản ổn định và có bước tăng trưởng. Các TCTD đã bám sát chỉ đạo điều hành của Nhà nước, tập trung mọi nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, các dự án, phương án có hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương năm 2022.

Ước nguồn vốn huy động đến 31/12/2022 đạt 83.177 tỷ đồng, giảm 4,86% so với cuối năm 2021.Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn ước đạt 11.925 tỷ đồng, chiếm 14,34% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,47% so với cuối năm 2021; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 71.252 tỷ đồng, chiếm 85,66 % tổng nguồn vốn huy động, giảm 6,12%. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 60.236 tỷ đồng, tăng 3,78%; tiền gửi thanh toán ước đạt 22.026 tỷ đồng, giảm 23,88% so với thời điểm cuối năm 2021. Nguồn vốn huy động giảm so với cuối năm 2021 nguyên nhân chủ yếu do nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm mạnh với mức giảm 25,9% so với cuối năm 2021. Tình hình dịch Covid-19 trong tỉnh và cả nước đã được kiểm soát và các chính sách nhằm phục hồi, phát triển kinh tế của Chính phủ được triển khai đã thúc đẩy các doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.

Dư nợ cho vay ước đến ngày 31/12/2022 đạt 89.105 tỷ đồng, tăng 24,14% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 60.854 tỷ đồng (chiếm 68,29% tổng dư nợ), tăng 24,73%; dư nợ trung dài hạn đạt 28.251 tỷ đồng (chiếm 31,71% tổng dư nợ) tăng 22,90%. Dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên đạt 37.043 tỷ đồng, tăng 19,51% so với cuối năm 2021. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 21,57% so với cuối năm 2021, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 73,84%, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,84%. Sự phục hồi của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tác động mạnh vào hoạt động xuất khẩu của cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các DN xuất khẩu phục hồi và duy trì chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao của các thị trường xuất khẩu lớn trong thời gian tới là một trong những giải pháp quan trọng giúp phát triển kinh tế Hà Tĩnh.

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,9-6% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-7,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 6,2-9,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn phổ biến 5,5-11%/năm, trung dài hạn phổ biến 10,5-13,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 2-4,5%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 5,5-5,6%/năm Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Tính đến 31/12/2022 nợ xấu ước tính 665 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ. Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức thấp nằm trong giới hạn cho phép.

Năm 2022, nhờ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường quyết toán dự án đầu tư, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng. Do đó tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở 3 khu vực đều tăng cao, tăng 47,74% so với năm 2021.

Với việc đang tập trung cao trong triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm trên địa bàn. Vì vậy, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 40.355,1 tỷ đồng, tăng 47,74% so với năm 2021. Trong đó, được phân theo các khu vực như sau:

Khu vực nhà nước ước đạt 9.314,7 tỷ đồng, tăng 15,86% so với năm 2021. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước 8.264 tỷ đồng (gồm giải ngân đầu tư công, giải phóng mặt bằng dự án Đường cao tốc Bắc Nam); vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước 157 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện nay Hà Tĩnh có 04 dự án được hỗ trợ 810 tỷ đồng từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đến nay đều đã được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư đảm bảo tiến độ, hiện các đơn vị, địa phương đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đầu tư theo quy định.

Khu vực ngoài nhà nước ước đạt 21.364,5 tỷ đồng, tăng 19,37% so với năm 2021. Trong đó: Vốn của dân cư đạt 12.745,2 tỷ đồng; vốn của doanh nghiệp đạt 8.619,3 tỷ đồng (dự án Pin VINES 3.694 tỷ đồng, Khu dân cư tổ 6,7 phường Đậu Liêu 220 tỷ đồng, Nhà máy bia Hà Nội Nghệ Tĩnh 50 tỷ đồng...).

Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 9.675,9 tỷ đồng, tăng gấp 7 lần so với năm 2021. Nguồn vốn khu vực này tăng chủ yếu do dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2, trong năm dự ước vốn thực hiện đạt trên 8.600 tỷ đồng.

Năm 2022, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự huy động mọi nguồn lực của các đơn vị thi công, cùng với đó là chính quyền địa phương các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc, thực hiện nhanh công tác bàn giao mặt bằng phục vụ triển khai các dự án trên địa bàn, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình xây dựng. Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều khởi sắc, giá trị tăng thêm ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2022 ước đạt 4.688 tỉ đồng, tăng 24,88% so với cùng kỳ năm 2021; đây là năm ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong vòng 5 năm, kể từ khi nhà máy Gang thép Formosa cơ bản hoàn thành xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất.

Hiện tại, Hà Tĩnh đang tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Hoạt động xuất nhập khẩu Hà Tĩnh năm 2022 gặp khá nhiều khó khăn, thách thức do sự bất ổn của tình hình thế giới, nhất là trong xuất khẩu mặt hàng giữ tỷ trọng lớn thép và phôi thép. Tuy nhiên, nhờ sự linh hoạt trong việc ứng phó khó khăn,cũng là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh khác như dệt, may mặc, chè, thủy sản....Nhưng việc giá trị của các mặt hàng này có khá nhỏ nên dù tăng mạnh cũng không kéo lại tăng trưởng Xuất khẩu chung. Năm 2022 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tỉnh ước đạt 5.200,64 triệu USD giảm 1,87% so với cùng kỳ.

- Kim ngạch xuất khẩu: Năm 2022 ước đạt 1.800,2 triệu USD, giảm 9,99% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài mặt hàng thép, phôi thép ước đạt 1.559,13 triệu USD giảm 13,38% so với năm 2021 còn có các nhóm hàng khác giảm như thủy sản giảm 15,92%; xơ, sợi dệt các loại giảm 27,45%. Có 3 nhóm hàng tăng mạnh và nâng dần tỷ trọng xuất khẩu như: Hàng dệt và may mặc đạt 27,49 triệu USD tăng 113,1% so với năm 2021; dăm gỗ đạt 75,44 triệu USD tăng 54,91% so với năm 2021; chè đạt 0,3 triệu USD tăng 25,0% so với năm 2021. Điểm sáng xuất khẩu năm 2022 là mặt hàng dệt và may mặc có sự tăng trưởng tốt là nhờ tình hình dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát nên việc cung ứng nguyên liệu, khâu vận chuyển hàng đảm bảo thông suốt và đơn hàng từ thị trường các nước đối tác thương mại ổn định hơn năm trước. Tính riêng xuất khẩu từ Formosa ước đạt 1.626,47 triệu USD (chiếm 90,35% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh) giảm 12,6% so với năm 2021.

- Kim ngạch nhập khẩu: Năm 2022 ước đạt 3.400,44 triệu USD, tăng 3,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 2.927,66 triệu USD (Chiếm 86,1%) tăng 6,04%.

Mặc dù hoạt động xuất khẩu chủ yếu là hoạt động của Formosa, nhưng việc giảm dần tỷ trọng đóng góp (Xuất khẩu giảm 2,7 điểm phần trăm) đánh dấu sự chuyển biến trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh nhà. Để kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số tăng trưởng cao nhất, cơ quan chức năng đang tích cực hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghệp khai thác hiệu quả các lợi thế từ FTA (Hiệp định thương mại tự do); đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường xúc tiến thương mại để gia tăng sản phẩm xuất khẩu và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo đề án đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gắn với phát triển dịch vụ logistics tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021 - 2025…

Tình giá cả các mặt hàng năm 2022 khá khó nắm bắt, sự lên xuống của giá cả thị trường hàng hóa biến động từng ngày. Nhưng nhìn chung, chỉ số giá tiêu dùng chung năm 2022 cơ bản được kiểm soát, nhất là tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán. Một số nhóm hàng có chỉ số sự bến động tăng mạnh như giao thông, vật liệu xây dựng, đồ uống, hàng may mặc và giải trí... Bên cạnh đó cũng có những nhóm hàng có chỉ số giảm như hàng ăn và dịch vụ ăn uống, bưu chính viễn thông.

Tháng 12 năm 2022, chỉ số giá CPI chung giảm nhẹ 0,1% so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ vẫn ở mức tăng 3,2%%. Trong đó, nhóm giao thông đã có dấu hiệu hạ nhiệt khi giảm 2,2% so với tháng trước và tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ. Do việc giá xăng, dầu bình quân giảm dần qua các lần điều chỉnh trong tháng do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tại đợt điều chỉnh ngày 21/12 vừa qua, giá xăng E5 RON 92 giảm 370 đồng/lít, còn 19.970 đồng/lít; xăng RON 95 giảm 500 đồng/lít, còn 20.700 đồng/lít. Trong khi đó, giá dầu hỏa giảm 70 đồng/lít xuống còn 21.830 đồng/lít, dầu diesel giảm 70 đồng/lít còn 21.600 đồng/lít, dầu mazut giảm 150 đồng/kg xuống 12.860 đồng/kg. Như vậy, giá xăng đã có lần giảm thứ 4 liên tiếp trong thời gian qua. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giá cả vẫn đang tăng nhẹ 0,87% so với tháng trước và so với cùng kỳ đã giữ mức tăng 5,18%, do việc mặt hàng chăn, ga, gối đệm, bàn là điện, bình nước nóng và đồ nội thất tăng giá theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu các vật dụng trang trí nhà ở trong dịp lễ Giáng sinh cũng góp phần làm chỉ số nhóm giá này tăng.

Tính chung cả năm 2022, chỉ số giá CPI tăng 2,2% so với năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,95%; nông thôn tăng 2,3% so với năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng thì chỉ có 2 nhóm hàng có chỉ số giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm không đáng kể 0,07% so với năm 2021. Xét trong nhóm hàng lương thực, thực phẩm mặc dù giảm rất ít nhưng đây là nhóm hàng thiết yếu lại bao gồm rất nhiều loại hàng hóa và có nhiều biến động. Cụ thể giá gạo và thịt các loại giảm so với năm trước do nguồn cung đã cơ bản ổn định, nhưng nhóm rau củ thì biến động rất thất thường, có lúc ở mức rất cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng, cụ thể có một số nhóm hàng tăng cao như: nhóm giao thông tăng 9,62%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,05%, văn hóa giải trí du lịch tăng 2,9%.; đồ uống thuốc lá tăng 2,27%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,92%... Do tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục bất ổn ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, tác động đến nhiều nhóm hàng hóa như xăng, dầu, khí đốt, vàng, sắt thép, đồ dùng công nghệ cao. Nền kinh tế khó khăn trên phạm vi toàn cầu, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng đã dẫn tới hoạt động sản xuất trong nước gặp bất lợi.

Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, thu nhập của người dân tăng hơn năm trước, kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mức tăng tập trung ở các tháng đầu năm, chịu ảnh hưởng bởi nhóm nhiên liệu xăng, dầu các loại tăng mạnh. Nguyên nhân chủ yếu do những bất ổn về kinh tế, chính trị trên thế giới đã tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước. Năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 1,43% so với năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,12% so với năm trước.

Dự kiến CPI tháng 01/2023 dự kiến tăng mạnh, mức tăng tăng dần từ thời điểm cuối tháng 12/2022 và giữ hết tháng 1/2023, khi thời điểm dịp Tết Nguyên đán đến gần. Mức tăng chủ yếu tập trung các nhóm lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, hàng may mặc, nội thất gia đình, cước vận tải hành khách, vật phẩm trang trí nhà ở, điện và khí đốt. Để bảo đảm nguồn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán, các siêu thị lớn, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đang có sự chuẩn bị về nguồn hàng cũng như đưa ra nhiều chương trình kích cầu…Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt để phục vụ đời sống cũng như sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá để bình ổn thị trường.

1. Dân số, lao động và việc làm

Năm 2022, tình hình dịch bệnh covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động ổn định trở lại, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp ở Hà Tĩnh tăng cao, đặc biệt tập trung một số nhóm ngành may mặc, điện, cơ khí và dịch vụ kinh doanh… vỳ vậy tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc hơn so với năm trước.

Dân số trung bình năm 2022 ước tính 1.319.181 người, tăng 0,39 % so với năm 2021 (tăng 5.125 người). Trong đó, dân số thành thị 294.156 người, chiếm 22,3%; dân số nông thôn 1.025.025 người, chiếm 77,7%; dân số nam 654.053 người, chiếm 49,58% và dân số nữ 665.128 người, chiếm 50,42%.

Ước năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 530.805 người tăng 3,34% so với năm 2021; trong đó lực lượng lao động nam là 280.673 người, chiếm 52,88%; lực lượng lao động nữ là 250.132 người chiếm 47,12% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 123.132 người, chiếm 23,20%; nông thôn là 407.673 người chiếm 76,80%.

Tính chung năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 505.162 người, chiếm 95,17% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 3,18% so với năm 2021. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị chiếm 23,47%; nông thôn chiếm 76,53%; ở nam giới chiếm 52,73%; nữ giới chiếm 47,27%. Số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 155.170 người, chiếm 30,72% trong tổng số; ngành công nghiệp và xây dựng là 144.686 người, chiếm 28,64%; ngành dịch vụ là 205.306 người, chiếm 40,64%.

Theo số liệu Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động năm 2022 là 22.995 người, đạt 104,52% kế hoạch năm 2022, tăng 1,89% so với năm 2021. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 7.293 người, chiếm 31,72% trong tổng số, giảm 36,8%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 4.185 người, chiếm 18,2%, giảm 23,1%; xuất khẩu lao động 11.517 người, chiếm 50,08%, tăng 106,14%.

Ước năm 2022, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 25.643 người, chiếm 4,83% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 0,15 điểm phần trăm so với năm trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp năm 2022 ước tính là 5,1%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với năm trước.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Đời sống dân cư: Sau thời gian dài gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã hoạt động bình thường và dần đi vào ổn định. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; thu hút các dự án đầu tư mới góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người dân, nhìn chung đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 45,08 triệu đồng/năm tăng 26,03% so với năm 2021.

Công tác giảm nghèo: Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Theo kết quả rà soát, hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022, toàn tỉnh còn 14.527 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,79% (giảm 3.321 hộ nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 0,89% tỷ lệ hộ nghèo); tổng số hộ cận nghèo 15.486 hộ, chiếm tỷ lệ 4,04% (giảm 3.934 hộ cận nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 1,05% tỷ lệ hộ cận nghèo).

Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Năm 2022 toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 502.448 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 158,361 tỷ đồng. Cụ thể: Tặng quà cho người có công khoảng 304.599 suất quà trị giá 83,498 tỷ đồng; Tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 50.576 suất quà trị giá 25,376 tỷ đồng; Tặng quà cho người cao tuổi khoảng 37.207 suất quà trị giá 10,656 tỷ đồng; Tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 66.500 suất quà trị giá 19,4 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 43.566 suất quà trị giá 19,431 tỷ đồng. Trao tặng 96 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 589 triệu đồng cho người có công. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 742 nhà kinh phí khoảng 50.895 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 80 nhà kinh phí khoảng 1.342 triệu đồng. Cấp khoảng 22.429 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 42.726 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 151.994 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 49.037 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công.

Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-Ttg ngày 28/03/2022 của Chính Phủ về “Quy định việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động”; Kế hoạch số 164/KH-UBND ngày 11/5/2022 của UBND tỉnh về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đến nay Hà Tĩnh đã hoàn thành việc chi trả hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Tổng số lao động được hỗ trợ 1.314 lao động với kinh phí hỗ trợ 1.999,5 triệu đồng, được chia làm 4 đợt. Đợt 1 là 301 lao động, kinh phí hỗ trợ 459 triệu đồng; đợt 2 là 375 lao động, kinh phí hỗ trợ 580 triệu đồng; đợt 3 là 169 lao động, kinh phí hỗ trợ 258 triệu đồng; đợt 4 là 465 lao động, kinh phí hỗ trợ 698,5 triệu đồng.

Nhìn chung, công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo.

Giáo dục phổ thông: Trong tháng đã diễn ra kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2022 - 2023 vào ngày 13/12 với tổng số 913 thí sinh tham gia ở 10 bộ môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin, Văn, Sử, Địa, Anh, Pháp. Kết quả toàn tỉnh có 562 thí sinh đạt giải, trong đó có 57 giải nhất, 158 giải nhì, 198 giải ba và 149 giải khuyến khích. Ngoài số thí sinh tham gia dự thi đạt giải, năm nay, toàn tỉnh còn có 91 thí sinh được đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh môn tiếng Anh theo Quyết định số 1472/QĐ-SGDĐT về việc đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh năm học 2022 - 2023 của Sở GD&ĐT.

Trên cơ sở những kết quả đạt được của năm học trước, năm học mới 2022-2023 ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, toàn tỉnh có 668 trường, trong đó có 527 trường đạt chuẩn quốc gia (gồm 255 trường mầm non (tăng 186 trường so với năm học trước), 221 trường tiểu học (không đổi), 147 trường THCS (không đổi), 45 trường THPT (không đổi)); với 10.783 lớp (mẩu giáo 2917 lớp (tăng 49 lớp); tiểu học 4250 lớp (tăng 82 lớp); THCS 2.427 lớp (tăng 83 lớp); THPT 1.189 lớp (giảm 3 lớp); 18.778 giáo viên (mầm non 5.621 người (giảm 73 giáo viên); tiểu học 5.605 người (tăng 232 giáo viên); THCS 4.799 người (tăng 361 giáo viên); THPT 2.753 người (tăng 29 người) và 335.175 học sinh (mầm non 74.416 học sinh (giảm 3.182 học sinh); tiểu học 136.500 học sinh (tăng 5886 học sinh); THCS 82.423 học sinh (tăng 4.609 học sinh); THPT 41.836 học sinh (tăng 3715 học sinh).

Giáo dục đào tạo: Năm 2022 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 19.671 người. Trong đó: trình độ cao đẳng nghề khoảng 662 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 4.190 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 14.819 người. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng công tác giới thiệu, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở thêm các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, có định hướng, khảo sát tiềm năng và tính bền vững của nghề đào tạo.

4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Tình hình dịch Covid 19: Mặc dù tình hình dịch bệnh hiện nay đang được kiểm soát, nhưng virus liên tục biến đổi với các biến chủng mới; tiềm ẩn khả năng lây lan nhanh. Vì vậy, Hà Tĩnh tiếp tục rà soát những người trên 12 tuổi đủ điều kiện nhưng chưa tiêm vắc xin và trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để triển khai tiêm vắc xin đạt tỷ lệ và hiệu quả cao nhất; tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao tỷ lệ tiêm vắc xin mũi nhắc lại theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và tiếp tục thực hiện cập nhật, “làm sạch” dữ liệu tiêm chủng COVID-19 theo Văn bản số 4891/UBND-VX1 ngày 31/8/2022 của UBND tỉnh.

Tổng số ca mắc từ ngày 01/01/2022 đến ngày 21/12/2022 là 57.216 ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến nay 58.175 ca mắc. Toàn tỉnh đã có 13/13 địa phương thực hiện việc cách ly, điều trị các ca bệnh tại nhà với 50.326 ca, trong đó đã có 50.053 ca khỏi bệnh.

Tình hình điều trị các ca bệnh: Chuyển các Bệnh viện tuyến trên 128 BN. Điều trị khỏi 57.837 BN, trong đó có 124 BN tuyến trên, 57.713 BN tại Hà Tĩnh, 54 BN tử vong.

Tình hình dịch bệnh khác: Trong tháng, trên địa bàn có một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 142 ca sốt xuất huyết, 21 ca mắc bệnh quai bị, 33 ca mắc lỵ trực trùng; 39 ca mắc lỵ a míp; 19ca mắc bệnh thủy đậu; 1.699 ca mắc bệnh cúm, tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch, và không có người chết do các bệnh trên.

Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 988 ca sốt xuất huyết (gồm 23 ổ dịch với 299 ca mắc và 689 ca đơn lẻ). Ngoài ra, năm 2022 còn có các ca bệnh đơn lẻ như sau: 3 ca mắc sốt rét (tăng 200,0%), 129 ca mắc bệnh quai bị (tăng 230,77%), 228 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 71,43%); 261 ca mắc lỵ a míp (giảm 9,06%); 184 ca mắc bệnh thủy đậu (giảm 74,55%); 14.951 ca mắc bệnh cúm (giảm 7,92%), tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch và không có ca bệnh nào bị tử vong vì các bệnh nói trên.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Năm 2022, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh (Ban Chỉ đạo 138 tỉnh) đã ban hành Kế hoạch số 3817/KH-BCĐ ngày 15/11/2022 về Triển khai Tháng hành động Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2022 (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 10/12/2022) với chủ đề “Chấm dứt dịch AIDS - Thanh niên sẵn sàng!”.

Trong tháng, có 3 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển thành AIDS và không có người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 người nhiễm mới HIV, giảm 2 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không đổi.

Năm 2022 có 28 người nhiễm mới HIV, 13 người chuyển thành AIDS và 3 người chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 27 người nhiễm mới HIV(giảm 49,09%), giảm 37 người chuyển thành AIDS (giảm 74,0%), tăng 1 người chết vì AIDS (tăng 50%).

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm về ATVSTP trên địa bàn tĩnh được tiến hành thường xuyên và có hiệu quả đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định về ATVSTP của người sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm.

Năm 2022 toàn tỉnh tổ chức thành lập 548 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành đã tiến hành kiểm tra 11.464 lượt cơ sở; phát hiện 1.041 lượt cơ sở có vi phạm về an toàn thực phẩm; xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 734 lượt cơ sở (70,5% số cơ sở vi phạm) với số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; tịch thu tiêu hủy nhiều hàng hóa vi phạm có giá trị cao.

Trong tháng, không xảy ra vụ ngộ độc tập thể, chỉ có 73 ca ngộ độc đơn lẻ. So với cùng kỳ năm trước số vụ ngộ độc tập thể không đổi, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 99 ca (giảm 57,56%), số ca tử vong không thay đổi.

Tính chung năm 2022 có 1 vụ ngộ độc tập thể làm 4 người bị ngộ độc, xảy ra tại một nhà hàng thuộc xã Cẩm Vĩnh, huyện Cẩm Xuyên; ngoài ra có 887 ca bị ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc; so với cùng kỳ năm trước giảm 2 vụ (giảm 66,67%) ngộ độc tập thể, giảm 49 ca (giảm 92,45%) ngộ độc tập thể, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 357 ca (giảm 28,75%), số ca tử vong không đổi.

5. Hoạt động văn hóa - thể thao

Hoạt động văn hóa: Trong tháng đã diễn ra một số hoạt động văn hóa sôi nổi như: ngày 27/11, đã diễn ra liên hoan các CLB dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của huyện Hương Sơn đâylà dịp để trao đổi, học hỏi, giữ gìn và lan toả các làn điệu dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh; ngày 12/12 Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức lễ ra mắt câu lạc bộ dân ca – dân vũ Thành Sen và biểu dương một số nghệ nhân dân gian bảo tồn, phát huy các loại hình văn nghệ dân gian trong giai đoạn 2020-2022... Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động văn hóa sôi nổi hơn so với năm trước.

Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động văn hóa được Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Tĩnh kiểm tra theo định kỳ, thường xuyên. Năm 2022, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã tổ chức 6 cuộc thanh, kiểm tra. Qua kiểm tra 154 cơ sở kinh doanh, hoạt động dịch vụ thuộc ngành quản lý đã lập biên bản nhắc nhở đối với 65 cơ sở kinh doanh còn hạn chế, thiếu sót; đình chỉ hoạt động 15 phòng hát karaoke; lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành 03 quyết định xử phạt VPHC đối với 03 trường hợp, nộp 17,5 triệu đồng vào ngân sách nhà nước.

Thể thao thành tích cao: Trong tháng, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 11 giải thi đấu đạt 39 huy chương các loại (9 HCV, 15 HCB, 15 HCĐ); trong đó 3 giải quốc tế gồm giải vô địch Karate châu Á 2022 (1HCV, 2HCB); giải đua thuyền Châu Á (1 HCV), giải vô địch bắn súng Đông Nam Á (1 HCĐ); 8 giải trong nước đạt 7HCV-13HCB-14HCĐ.

Tính chung cả năm 2022, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 39 giải đấu, đạt 246 huy chương các loại (92 huy chương vàng, 72 huy chương bạc, 82 huy chương đồng), trong đó 05 giải quốc tế đạt 20 huy chương (9HCV-7HCB-4HCĐ), SEA Games 31 đạt 16 huy chương (6 huy chương vàng, 7 huy chương bạc, 3 huy chương đồng).

Thể thao quần chúng: Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động thể thao quần chúng có phần sôi động trở lại. Theo báo cáo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến nay tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 38 %; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 27,9 %; cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở là 470 người; số câu lạc bộ thể thao phong trào đạt trên 1.050 câu lạc bộ.

Từ ngày 15/11 - 14/12/2022 xảy ra 16 vụ tai nạn đường bộ, làm chết 12 người, bị thương 7 người, thiệt hại tài sản 250 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ tai nạn, giảm 1 người chết, số người bị thương không đổi, thiệt hại tăng 54 triệu.

Tính từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/12/2022 toàn tỉnh đã xảy ra 108 vụ tai nạn đường bộ, 1 vụ tai nạn đường sắt làm chết 91 người, bị thương 46 người, thiệt hại tài sản 1.770 triệu đồng. So với với năm trước giảm 7 vụ tai nạn đường bộ (giảm 6,09%), tăng 1 vụ tai nạn đường sắt; giảm 5 người chết (giảm 5,21%), giảm 4 người bị thương (giảm 8%). Nguyên nhân chủ yếu là không làm chủ tốc độ, đi sai phần đường, sử dụng rượu bia quá nồng độ cho phép khi tham gia giao thông.

7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Tình hình cháy, nổ: Tính từ ngày 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 17 vụ cháy, nổ không có người chết và bị thương với tổng giá trị thiệt hại ước tính 102,50 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 16 vụ; số người chết và bị thương không đổi. Tính chung cả năm 2022, xẩy ra 71 vụ cháy, nổ làm 1 người chết và 1 người bị thương, với tổng giá trị thiệt hại ước tính 5.025,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021 tăng 8 vụ cháy, nổ; giảm 2 người bị thương; giảm 1 người chết. Nguyên nhân chủ yếu do chập điện và bất cẩn khi sử dụng lửa.

Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/11 đến ngày 14/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 97 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 59 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 210,7 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 76 vụ đã phát hiện (tăng 361,90%), tăng 38 vụ đã xử lý (tăng 180,95 %), số tiền xử phạt giảm 1.259,80 triệu đồng (giảm 85,67%).

Năm 2022 (ngày 15/12/2021 - 14/12/2022) đã phát hiện 973 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 642 vụ, với tổng số tiền xử phạt 2.909,12 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước tăng 809 vụ vi phạm (tăng 493,29%), tăng 519 vụ đã xử lý (tăng 421,95%), tăng số tiền nộp phạt 41,27 triệu đồng (tăng 1,44%). Vi phạm môi trường đã phát hiện trong năm vận chuyển, khai thác cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... gồm 888 vụ (chiếm 91,26%); vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 39 vụ (chiếm 4,01%); xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường 33 vụ (3,39%), thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 12 vụ (chiếm 1,23%). Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí 1 vụ ( chiếm 0,11%).

Trong tháng, không xảy ra thiên tai, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ thiên tai, số người bị thương và bị chết không đổi, giảm thiệt hại 92 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra 7 vụ thiên tai, cụ thể là 01 vụ sóng to, gió lớn (ngày 3/4); 2 vụ mưa lớn (ngày 30/4-1/5, ngày 27/9-2/10); 3 vụ sét đánh (ngày 26/5, ngày 14/6 và 21/7 ); 01 vụ lốc xoáy (ngày 14/6) làm chết 4 người, 2 người bị thương, làm hư hỏng 1 chiếc tàu, 582 nhà hư hỏng, thiệt hại 522 ha diện tích lúa, 421 ha diện tích hoa màu, 2.000 con gia cầm bị chết. Ước tính tổng thiệt hại là 42.497 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ thiên tai, tăng 1 người chết, giảm 2 người bị thương, tổng thiệt hại về tài sản giảm 144.783 triệu đồng.

III. DỰ BÁO, ĐẾ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề đánh giá giữa kỳ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà sẽ gặp khóa khăn và thách thức do tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, xung đột tại Ukraine có thể còn kéo dài; kinh tế trong nước nước dự báo còn chịu sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh tiếp tục xu hướng tăng; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị trường lao động việc làm dự báo còn gặp nhiều khó khăn; biến đổi khí hậu, dịch bệnh tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng nặng nề hơn.

Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đề ra. Trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn, trọng điểm: Tập trung khắc phục sự cố và vận hành trở lại Tổ máy số 1 tại Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1; tạo mọi điều kiện để Nhà máy Pin VinES đi vào vận hành và sản xuất theo kế hoạch. Tích cực thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép, khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển dịch vụ logictics.

Hai là, thực hiện đồng bộ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy hiệu quả Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành và các địa phương (DDCI), góp phần nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).

Ba là, tiếp tục rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, các nhà đầu tư chiến lược như (Vingroup, Sun Group, Ecopark, VSIP, T&T, Quế Lâm...);

Bốn là, chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất các vụ trong năm; chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

Năm là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai; giải quyết các xung đột pháp lý về thủ tục giao đất, xác định đơn giá đền bù, thủ tục thanh quyết toán xây dựng cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Trước mắt, ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế./.